QUAN ÂM NGŨ BỘ CHÚ – PHẦN I
QUAN ÂM NGŨ BỘ CHÚ
PHẦN I
Huyền Thanh Nguyễn Vũ Tài dịch
* * *
MỤC LỤC
Thay lời tựa
Lục Tự Minh Chú
Truyền thống tín ngưỡng về Lục Tự Minh Chú
Vài ý nghĩa cơ bản của Lục Tự Minh Chú
THAY LỜI TỰA
Từ xưa đến nay trong tất cả
Tôn Tượng của chư Phật Bồ Tát trên vùng Á Đông thì hình ảnh Bồ Tát Quán Thế Aâm
thường in nét sâu đậm nhất trong tâm thức của các giáo đồ Phật Giáo Đại Thừa.
Hầu như mọi người đều xem Ngài là một bà mẹ hiền luôn ôm ấp một tình thương
rộng lớn, luôn đưa mắt theo dõi muôn loài chúng sinh để kịp thời cứu giúp họ
vượt qua mọi ách nạn khổ đau và đem đến cho họ niềm an vui hạnh phúc chân thật.
Sự sùng kính Ngài dâng cao đến nỗi người Trung Hoa đã có câu :” Người
người niệm Quán Âm” và xưng tán Ngài là Trung Hoa Giáo Chủ Đại
Từ Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát. Còn người dân Tây Tạng thì tin tưởng
rằng họ là hậu duệ của Bồ Tát Quán Thế Âm
Trên đất nước ViệtNam. Qua
những câu chuyện kể , những vở chèo, tập truyện thơ minh họa các tích nhẫn
nhục, từ bi, vị tha , cứu khổ của Bà Chúa Ba (Quan Âm Diệu Thiện) và Quán Âm
Thị Kính thì hình ảnh Bồ Tát Quán Thế Âm lại càng đi sâu và bám rễ vững chắc
hơn nơi tâm hồn người Việt. Do vậy bất kỳ một người nào biết xưng niệm Danh
Hiệu và phụng thờ Tôn Tượng Quán Thế Aâm mà vượt qua được các sự khổ đau, tai
nạn, bệnh hoạn… đều tự cho mình đã được sự cứu giúp tế độ của mẹ hiền Quán Thế Âm.
Từ đây hàng trăm hàng ngàn mẩu chuyện linh ứng về Đức Bồ Tát Quán Thế Aâm đã
xuất hiện nhằm củng cố sự phụng thờ Ngài.
Tín ngưỡng này lan rộng trong
dân gian đến nỗi người ta chỉ xem Ngài như là một bà mẹ hiền chỉ biết yêu
thương , chăm sóc, cứu giúp chúng sinh vượt qua mọi biển khổ mà quên đi Tôn Chỉ
của Ngài là Trợ giúp cho muôn loài, tự mình giác ngộ để vượt thoát vòng
sinh tử luân hồi. Như Đức Phật đã dạy:”Hãy tự xem mình là hải
đảo (chỗ ẩn náu) của mình. Chính mình là chỗ nương dựa của mình, không nên tìm
sự nương dựa bên ngoài. Hãy xem Giáo Pháp là hải đảo của mình, Giáo Pháp là chỗ
nương dựa của mình, không nên tìm sự nương dựa ở bên ngoài”
Lời dạy này muốn nhấn mạnh
đến tầm quan trọng của sự cố gắng cá nhân nhằm đạt tới mục tiêu rốt ráo là tự
thanh lọc tâm ý của mình và tự mình vượt thoát ra khỏi mọi hình thức khổ đau
của cuộc sống, còn sự cầu xin van vái hay lệ thuộc vào người khác thì không có
hiệu quả.
Như vậy thì quyền năng ban
phát ân huệ và cứu độ những kẻ bị đọa lạc của Bồ Tát Quán Thế Aâm có hiện hữu
thật hay không ?!…
Thật ra quyền năng cứu độ của
Bồ Tát Quán Thế Âm được tạo thành trên Bản Nguyện của Ngài, tức là dựa trên cơ
sở nỗ lực của cá nhân. Do đó Tha Lực có thể được xem là một thứ Tự Lực hiện
hành nhằm thực hiện ước nguyện của cá nhân. Ví dụ như ông Paster do
nhìn thấy người ta quằn quại đau khổ và bị chết vì bệnh Chó Dại nên
ông đã nỗ lực tìm tòi phương cách chữa trị, cuối cùng ông đã giúp cho nhân loại
ngày nay thoát khỏi căn bệnh này.
Lại nữa Tha Lực chỉ có thể
hiện hành được trong những điều kiện và giới hạn nào đó phù hợp với khả năng
thi thố của nó, tức là đối tượng của Tha Lực cần phải có những nhân tố gì,
những điều kiện gì thì mới có thể đáp ứng được như cầu của Tự Lực. Điều này có
nghĩa là khi mình muốn vươn tới thì phải có một cái gì để vươn tới, cái gì có
khả năng thu hút được sự vươn tới của ta. Nói cách khác Tha Lực và Tự Lực chỉ
là những biểu hiện quá trình tự ý thức , tự giác ngộ của
mỗi một cá nhân. Ví như một người Thầy giỏi luôn tận tụy dạy bảo các học trò
của mình và luôn quan tâm giúp đỡ chúng học tập (Tha Lực) thế nhưng học trò có
tiến bộ hay không thì phần lớn đều do ý thức của chúng (Tự Lực). Đây cũng là lý
do mà các Môn Đệ của Đức Phật sau khi đã trải qua một thời gian tu tập dưới sự
dìu dắt của Đấng Cha Lành (Tha Lực) và chứng đạt được Quả Vị giải thoát thì Vị
nào cũng nói rằng:”Những việc cần làm, Ta đã làm xong” (Tự
Lực).
Do ý nghĩa này mà Tổ Huệ Năng
đã nói rằng :”Khi mê thì con nhờ Thầy độ, khi giác ngộ rồi thì con
tự độ”
Và các Bậc Cổ Đức cũng đã
nói :”Khi còn mê muội thì chúng ta van xin cầu khẩn chư vị Bồ Tát
giúp đỡ. Nhưng sau khi thức ngộ thì chúng ta nhận ra rằng các vị Bồ
Tát luôn ở trong lòng của chúng ta, là chính chúng ta”
Tại Việt Nam, do không nắm
vững được diệu dụng kết hợp giữa Tha Lực và Tự Lực nên một số người đã cho rằng
Pháp tu Quán Âm chỉ gói gọn trong sự cầu đảo mê tín của những kẻ yếu đuối có
căn cơ hạ liệt và Mật Giáo chính là khối ung nhọt đang hủy hoại dần truyền
thống tốt đẹp của Phật Giáo?!…. Thật ra, những người có tâm bài báng đó
không hề biết rằng Mật Giáo luôn hàm chứa những phương thiện thiện xảo truyền
tải Giáo Lý Giải Thoát của Đức Phật Đà. Hết thảy các Đàn Giới (Manïdïala), Aán
Quyết (Mudra), Thần Chú (Mantra), Minh Chú (Vidya), Tổng Trì (Dhàranïì) đều
biểu tượng cho Lý Thú Giải Thoát hoặc Bản Nguyện Từ Bi
Phổ Độ của các vị Hiền Thánh trong Phật Đạo, tức là người tu Mật Giáo
cần phải thấu hiểu rõ ràng sự kết hợp nhuần nhuyễn của cả hai pháp Hiển
Mật và Ngũ Bộ Chú chính là một biểu tượng cho pháp tu
“Hiển Mật Viên Thông” của Mật Giáo.
Trong nhiều năm, với ước
nguyện góp chút ít công sức cho sự phát triển của Phật Giáo ViệtNam. Tôi không
ngại tài hèn sức kém đã cố gắng tìm tòi, nghiên cứu pháp tu Ngũ Bộ Chú của Bồ
Tát Quán Thế Aâm và đã mạo muội biên dịch nghĩa thú tu trì của Pháp Môn này
(Trọng tâm của Pháp Tu này chính là Lục Tự Minh Chú của Bồ Tát Quán Thế Âm)
nhằm giúp cho một số người nghiên cứu hiểu Mật Giáo một cách rõ ràng hơn.
Nay do sự gợi ý của các bạn
đồng tu, tôi đã tìm thêm được phương cách vận dụng 12 ứng hóa thân của Bồ Tát
Quán Thế Aâm tương ứng với 12 tháng Âm Lịch trong năm của Mật Giáo Nepal, nên
tôi ghi chép thêm vào phần Lục Tự Minh Chú nhằm hỗ trợ cho sự nghiên cứu và tìm
hiểu thêm về pháp tu của Đức Đại Bi Quán Thế Aâm.
Lẽ tất nhiên bản ghi chép này
vẫn còn nhiều sự khiếm khuyết, ngưỡng mong chư vị Cao Tăng Đại Đức và các bậc
Long Tượng của Mật Giáo hãy rũ lòng từ bi giúp cho bản ghi chép này được hoàn
thành tốt hơn.
Mọi Công Đức có được trong
tập ghi chép này, con xin kính dâng lên Hương Linh Thân Phụ (Nguyễn Vũ Nhan),
Thân Mẫu (Vũ Thị Ni) là hai bậc ân nhân đầu tiên của con.
Nguyện xin cho các bậc ân
nhân của tôi và toàn thể chúng Hữu Tình đều sớm vượt qua được mọi ách nạn khổ
đau và đạt được hạnh phúc cao thượng trong Giáo Pháp Giải Thoát của Đấng Phật Đà.
Cuối mùa Hạ năm Bính Tuất (2006)
Huyền Thanh (Nguyễn Vũ Tài) kính ghi
Quan Âm Ngũ Bộ Chú
Huyền Thanh Nguyễn Vũ Tài dịch
LỤC TỰ MINH CHÚ
(VIDYÀ SÏADÏA KSÏARÌ )
TRUYỀN THỐNG TÍN NGƯỠNG VỀ LỤC
TỰ MINH CHÚ
Lục Tự Minh Chú ( Vidyà
sïadïa ksïarì ) nguyên là Tâm Chú của Đức Quán Thế Âm Bồ Tát mà giáo đồ Lạt Ma
giáo thường xưng tán và sau này được lưu truyền thành câu trì tụng của tín đồ
Phật giáo Đại Thừa.
Theo truyền thuyết của Tây
Tạng, khoảng năm 371 tương đương với thời Đông Tấn của Trung Hoa, vào đời vua
Cáp Đóa Lật Tư Tán ( Tho Thori Gnõan Btsan) đột nhiên có 04 chiếc rương từ trên
trời rơi xuống nóc cung điện. Đúng lúc ấy, có 05 nhà sư từ Ấn Độ đến mở 04
chiếc rương đó ra xem thì thấy các bộ Kinh: Bảo Khiếp Trang Nghiêm Kinh, Bách
Sám Hối Kinh, Lục Tự Đại Minh Bảo Ngọc Khắc ( tức 06 chữ OMÏ MANÏI PADME
HÙMÏ ) cùng với Tháp vàng và hương Khẩn Đà Ma Ni … đồng thời còn nghe văng vẳng
trên hư không có tiếng nói là: “Từ đây đợi đến 05 đời nữa sẽ hiểu
được việc này”. Tuy không biết việc này có ý nghĩa gì nhưng nhà
vua vẫn cung kính trọng thờ. Do công Đức của phước nghiệp ấy, nhà vua thọ được
120 tuổi và nước mạnh dân giàu.
Trải qua 05 đời, khoảng năm
615, vào đời vua Khí Tông Lộng Tán (Srong tsan Gampo) thì tín ngưỡng Quán Thế
Âm được phát triển mạnh mẽ. Vì thế, truyền thuyết này cho rằng Lục Tự Minh Chú
là một món quà quý báu do Đức Quán Thế Âm Bồ Tát ban cho thế gian đầy dẫy đau
khổ này nhằm giúp đỡ cho tất cả chúng sinh xa lìa mọi ách nạn phiền não, đạt
đến sự an vui phỉ lạc.
Truyền thuyết khác cho rằng
Lục Tự Đại Minh chú là câu Chân ngôn mà Đức Quán Thế Âm Bồ Tát dùng để tán thán
Đức Phật A Di Đà và nói là : “Chân ngôn này là tất cả Phước Đức, Trí Tuệ và là
căn bản của các Hạnh”.
Tây Tạng còn lưu truyền một
truyền thống khác nữa là: ở vô lượng kiếp trước, với tâm Đại Bi vô hạn, Quán
Thế Âm Bồ Tát muốn cứu thoát tất cả chúng sinh ra khỏi biển khổ sinh tử luân
hồi, nên đối trước chư Phật mười phương, Ngài phát nguyện rằng: “Nguyện cho con
cứu được tất cả chúng Hữu tình. Nếu có khi nào, con mệt mỏi trong công việc lớn
lao này, thì nguyện cho thân con tan thành ngàn mảnh”.
Thoạt tiên, Ngài xuống cõi
Địa ngục, sau đó đến cõi Ngạ quỷ và tiến dần lên cho đến cõi Trời. Tại đấy,
Ngài nhìn xuống thế giới đau khổ với cái nhìn thấu hiểu của Thánh Trí thì tâm
Ngài bị xúc động sâu sắc. Vì mặc dù Ngài đã cứu nhiều chúng sinh thoát khỏi Địa
ngục nhưng vẫn còn có vô số chúng sinh khác đang sa vào. Điều này làm cho Ngài
buồn rầu vô hạn. Trong một lúc, gần như Ngài đã mất tất cả niềm tin vào lời
nguyền vĩ đại mà Ngài đã tuyên thệ và thân thể Ngài liền nổ tung thành ngàn
mảnh. Giữa cơn tuyệt vọng, Ngài cầu cứu tất cả chư Phật. Ngay lập tức, hằng hà
sa số chư Phật từ mười phương đều hiện thân đến cứu giúp. Với thần lực nhiệm
màu, chư Phật làm cho Ngài hiện trở lại toàn thân và từ đấy Ngài có 11 cái đầu,
1.000 cánh tay, trên mỗi bàn tay có một con mắt. Sự kiện này biểu thị cho sự
phối hợp giữa trí tuệ và phương tiện thiện xảo, là dấu hiệu của Tâm Đại Bi chân
thật.
Trong hình thức này, Ngài đã
sáng chói rực rỡ và có nhiều năng lực hơn trước để cứu giúp chúng sinh. Khi ấy,
tâm Đại Bi của Ngài còn mãnh liệt hơn trước nữa. Và đối với chư Phật, Ngài lại
phát nguyện rằng: “Khi tất cả chúng sinh chưa thành Chính Giác, thì con nguyện
không thành Chính Giác”. Từ đây, Ngài càng nhận rõ được sự khổ đau và thấy rõ
từng loại chúng sinh. Do đó, đối với kẻ mong cầu và kêu gọi đến sự giúp đỡ của
Ngài thì Ngài hiện ra trước mặt và giúp cho người ấy thỏa mãn sự mong ước tùy
theo mỗi hoàn cảnh bằng một hình thức thích ứng. Theo cách này, Quán Thế Âm Bồ
Tát hiện thân với vật cầm tay tiêu biểu cho công tác hóa độ chúng sinh tương
ứng với Bản Tính của sự sống tùy theo cõi giới của họ.
Cõi Trời (Sura hay Deva) là
một cõi thụ hưởng. Trong cõi đó, chư Thiên thường khởi tâm tự mãn và bám chặt
vào các ảo tưởng về những niềm vui tạm thời. Do đó, Đức Quán Thế Âm Bồ Tát hiện
thân với cây đàn Tỳ Bà để tạo ra Pháp Âm (Dharma Svara) đánh thức chư Thiên
thoát khỏi những ảo tưởng của phước báo mà họ đang thụ hưởng, đồng thời đưa họ
đến một thực tại cao siêu hơn, một sự hòa hợp sâu sắc hơn và vĩnh cửu hơn.
Cõi Tu La (Asura) hay
cõi Thần (Devatà) là cõi chiến đấu. Trong cõi đó, chư Thần thường khởi tâm ganh
tỵ, chỉ thích tranh đấu để chiếm đoạt các quả của cây Kalpa Taru (cây Thỏa mãn
mọi ước nguyện) đứng giữa cõi Trời và cõi Thần. Do đó, Đức Quán Thế Âm Bồ Tát
hiện thân với cây kiếm sáng chói, biểu thị cho trí tuệ hoạt động phân biệt, đâm
thủng bóng tối ganh tỵ và chém đứt các mối dây ràng buộc bởi sự thèm khát, đồng
thời dậy cho chư Thần sự chiến đấu cao thượng để đạt thành quả của sự thấy biết
mà thoát khỏi mọi tham dục.
Cõi Người (Manusïyana hay
Nàra) là cõi hành động. Đây là thế giới của sự cố gắng, của hoạt động có ý thức
về mục đích của mình, trong đó sự tự do quyết định giữ một vai trò thiết yếu.
Trong cõi này, con người có khả năng biết rõ các đặc tính của các cõi và tất cả
hiện tượng đều do “Nhân duyên mà sinh khởi” như nhau, đồng thời con người có
thể tìm ra được bản tính chân thật của vũ trụ và nhận thức được con đường vĩnh
viễn ra khỏi vòng sinh tử luân hồi. Tuy vậy, đại đa số con người thường mang
tâm: tự kiêu, ích kỷ, hoài nghi mà bị trói buộc trong các hoạt động nhằm tìm cầu
chiếm hữu và thỏa mãn dục tình cho riêng mình. Do đó, Đức Quán Thế Âm Bồ Tát
hiện ra hình tướng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni với cái bình bát và cây gậy ẩn sĩ
để chỉ con đường giải thoát cho những ai có khả năng xóa bỏ mọi dục vọng tư kỷ,
dứt trừ tâm kiêu mạn hoài nghi, thực hiện công hạnh cứu độ tối hậu.
Cõi Súc Sinh (Tiryanõc hay
pa’su) là cõi sợ hãi. Trong cõi đó, các loài vật thường mang tâm thức thờ ơ gắn
chặt với bản năng, không đủ năng khiếu phát triển tư tưởng. Vì thế, chúng luôn
luôn sống trong sự sợ hãi qua sự đuổi bắt, vây hãm, ăn nuốt lẫn nhau và bị đẩy
vào số phận mù quáng của những nhu cầu tự nhiên, những bản năng không thể kiểm
soát được. Do đó, Đức Quán Thế Âm Bồ Tát hiện thân với một quyển sách cầm tay
nhằm nâng cao Tâm thức trì độn mù quáng của loài súc sinh để hướng chúng tới
một tinh thần phát triển, vượt thoát bản năng tăm tối.
Cõi Ngạ Quỷ (Preta) là cõi
ước mong không được thỏa mãn. Là thế giới đầy dẫy sự thèm khát mong muốn tham
dục mà không bao giờ thực hiện được. Chúng sinh trong cõi này thường mang những
hình tướng quái dị như: thân thể cao lớn, đầu to như núi, cuống họng nhỏ như
cây kim, đầu tóc lởm chởm, miệng như ngọn đuốc lửa, bụng to lớn …. dù gặp vật
thực cũng chẳng ăn nuốt được. Hoặc có loài da đen như than, đầu tóc lởm chởm,
miệng khô đắng, ưa le lưỡi tự liếm miệng, thường chịu đói khát. Hoặc có loài
tên là Mãnh Diễm Mang, mỗi khi ăn uống đều bị hóa lửa đốt làm cho đói khát khổ
đau.
Tất cả loài Ngạ Quỷ này đều
bị đói khát dày vò không bao giờ được thỏa thích no đủ. Vì thế, tâm thức của
chúng gắn chặt với sự tham dục đam mê không biết nhàm chán và luôn bị sự thất
vọng dày xéo bủa vây. Do đó, Đức Quán Thế Âm Bồ Tát liền hiện thân với một cái
bình đựng đầy những báu vật của Trời nhằm xoa dịu những nỗi khổ đau vì thèm
khát của loài Ngạ Quỷ, khơi động tâm thức nhàm chán những đối tượng nhiễm ô và
khởi tâm ưa thích những đối tượng thanh khiết (nghĩa là thay Dục Lạc bằng Pháp
Lạc, tìm hiểu Chính Tri Kiến và Chân lý) để cho chúng mau chóng hồi tâm sám
hối, vượt thoát cảnh khổ đau.
Cõi Địa ngục (NàraKa hay
Niraya) là cõi hành hạ đền tội. Đó là thế giới đầy dẫy những cảnh khổ đau qua
những cuộc hành hạ tra tấn. Chúng sinh của cõi này luôn luôn chịu đựng những
nỗi thống khổ, là những phản ảnh không thể tránh được do chính các hành động
của họ gây ra. Vì thế, tâm thức của họ luôn bị sự giận dữ oán ghét bủa vây. Do
đó, Đức Quán Thế Âm Bồ Tát hiện thân với ngọn lửa trên tay nhằm thanh lọc tâm
thức bị ô nhiễm bởi sự giận ghét và biến đổi các cuộc hành hình tội nhân thành
ngọn lửa thanh lọc để giúp họ vươn tới những hình thức sinh sống tốt đẹp hơn.
Do công hạnh ứng hóa trong
sáu cõi (Sïadïa gatayahï hay sïadïa Kula) để hóa độ chúng sinh nên trong Lục Tự
Tâm chú của Đức Quán Thế Âm thì mỗi một âm đều có một hiệu quả đặc biệt nhằm
tịnh hóa 06 phiền não gốc(ảo tưởng kiêu mạn, ganh tỵ tranh đấu, hoài nghi
tự kiêu, trì độn mù quáng, tham dục thèm khát, giận dữ oán hận) để
ngăn ngừa sự tái sinh vào 06 cõi và xua tan các nỗi khổ đau ẩn tàng trong mỗi
cõi.
Như Mật Tông Tây Tạng Bảo
Điển có ghi: “Y theo Lục Tự Đại Minh chú này thì có thể ngăn chặn được các cửa
sinh tử trong lục đạo”
- Trong Tây Tạng Quán Âm
Kinh, Ngài Ma Ni Già Bộ Bà (Manïi bkahï hïbumï) đã dùng thi ca xưng tán công
đức của Lục Tự Minh chú và nói chú này là cội nguồn của Trí Tuệ giải thoát với
mọi sự cứu tế khoái lạc. Trong Lục Tự Minh chú:
Nếu có người xướng lên chữ
OMÏ thì công đức ấy sẽ giúp cho người này sau khi chết sẽ cắt đứt được sự lưu
chuyển vào Thiên Giới.
Nếu xướng lên chữ MA thì có
thể miễn trừ được sự luân hồi trong nẻo Tu La, là nơi cư ngụ của loài quỷ Thần
ác.
Nếu xướng lên chữ NÏI thì sẽ
xa lìa sự tái sinh vào chỗ ách nạn của cõi Nhân gian.
Nếu xướng lên chữ PAD thì sẽ
xa lìa được sự luân hồi vào chỗ tai nạn của nẻo súc sinh.
Nếu xướng lên chữ ME thì sẽ
tránh khỏi sự trầm luân vào cảnh khổ đau của nẻo Ngạ Quỷ.
Nếu xướng lên chữ HÙMÏ thì sẽ
giúp cho kẻ ấy sau khi chết miễn trừ được sự khổ đau của nẻo Địa ngục.
- Kinh Quán Âm của Tây Tạng
lai miêu tả:
Chữ OMÏ có màu trắng, biểu
thị cho Thiên Giới.
Chữ MA có màu xanh, biểu thị
cho Tu La đạo.
Chữ NÏI có màu vàng,
biểu thị cho Nhân Gian giới.
Chữ PAD có màu xanh lục, biểu
thị cho Súc Sinh đạo.
Chữ ME có màu hồng, biểu thị
cho Ngạ Quỷ đạo.
Chữ HÙMÏ có màu đen huyền,
biểu thị cho Địa Ngục đạo.
Kinh này lại cho rằng: “Chẳng
phải dùng miệng xướng lên Minh Chú này thì mới có công đức. Nếu kẻ nào đeo chú
này trên thân, hoặc cột vào tay, hoặc chôn trong da thịt thì cũng tạo được nhân
chủng giải thoát khỏi sinh tử”.
Do kết hợp ý tưởng này với
giáo lý Tịnh Độ, nhân dân Tây Tạng thường hướng về Đức Liên Hoa Thủ Bồ Tát
(Padma Pànïi Bodhisatva) xưng tụng câu chú “OMÏ – MA NI – PÊ MÊ – HUNG” (tức
OMÏ MANÏI PADME HÙMÏ) để cầu nguyện ngày sau được vãng sinh về thế giới Cực Lạc
(‘Sukha vàti) ở phương Tây do Đức Phật A Di Đà (Amitàbha buddha) làm giáo chủ.
Ngoài ra, để tăng cường cho
năng lực gia hộ cứu độ của Lục Tự Đại Minh chú, một số vị Đạo sư đã khuyên dạy
đệ tử nên phụng thờ Tôn Tượng “Tứ Thủ Quán Âm” và cố gắng tu hành
theo ý nghĩa của Tôn Tượng này.
Thân thể đẹp đẽ của Ngài:
biểu thị cho Báo thân Phật.
Một cái đầu: biểu thị cho sự
BẤT NHỊ của Bản tính quyệt đối.
Bốn tay: biểu thị cho 04 tâm
vô lượng: Từ, Bi, Hỷ, Xả.
Hai chân xếp bằng trong tư
thế Kim Cương Tọa: biểu thị cho tính NHẤT NHƯ của Sinh tử và Niết Bàn.
Ngồi trên hoa sen ngàn cánh:
biểu thị cho tâm Đại Bi.
Vành trăng dung chứa Tôn
Tượng: biểu thị cho TÍNH KHÔNG (‘Sùnyatà).
Hai tay chắp ở tim và cầm
viên ngọc: biểu thị cho tâm Bồ Đề, viên ngọc như ý ban cho những thành tựu tối
cao và thông thường.
Hai tay còn lại: Tay phải cầm
một xâu chuỗi pha lê biểu thị cho lòng Từ Bi không ngưng nghỉ của Ngài trải dài
như một dòng không dứt qua trái tim của mỗi một chúng sinh. Tay trái cầm một
hoa sen trắng biểu thị cho sự thanh tịnh không biến đổi của Trí Tuệ của Ngài,
nở trọn vẹn trên bùn lầy sinh tử.
Viên ngọc: biểu thị cho Trí
Tuệ đại lạc như phương tiện.
Hoa sen: biểu thị cho trí Tuệ
Tính Không như sự chứng ngộ.
- Từ các truyền thống này,
các vị Đạo sư Mật giáoTây Tạng đều nhận định rằng: “OMÏ MANÏI PADME HÙMÏ là
tinh túy Trí Tuệ của chư Phật, là tinh hoa của 05 cõi Phật và các vị Thượng sư.
Văn tự Thần chú của 06 âm vận thể hiện là nguồn gốc của tất cả sự thiện mỹ, căn
nguyên của mọi sự lợi lạc tốt lành, hoàn toàn viên mãn con đường thẳng tắt vượt
qua Thế gian, thành tựu sự giải thoát Xuất Thế gian”.
Để cho nhận định trên được rõ
ràng hơn, các vị Đạo sư Tây Tạng đã minh họa Lục Tự Đại Minh Chú như sau:
OMÏ màu trắng, âm vận thể
hiện Thánh Đức của Quán Thế Âm Bồ Tát được phát ra từ Thần lực du hý tự tại.
OMÏ là tướng thể của Thiền định viên mãn, hằng diệt trừ tính kiêu ngạo, nhất là
tính tự cao của cõi Trời, vì đó là cội nguồn phát sinh phiền não sa đọa (rơi
xuống các cõi thấp hơn). OMÏ tiêu trừ kiêu ngạo và nghiệp phiền não. OMÏ
đồng với hình tướng và công năng uy lực của vua trời Đế Thích (Indra), vị Thánh
của hàng Trời. OMÏ thể hiện cho Bình Đẳng Tính Trí (Samanta jnõàna) hướng dẫn
chúng sinh vượt qua phương Nam vào thế giới Chúng Bảo Trang Nghiêm của Đức Phật
Bảo Sinh (Ratna Sambhava).
MA màu xanh lục, âm vận
tiêu biểu cho công hạnh, phát sinh từ năng lực Thần thông Từ Bi vô ngại của
Quán Thế Âm Bồ Tát, thị hiện trước tất cả chúng sinh. MA là tính thể của Nhẫn
Nhục Ba La Mật, có công năng tiêu trừ tính ganh ghét đố kỵ đặc biệt đang ngự
trị cõi A Tu La (Asura). MA đồng hóa với Tướng và Dụng của Ngài Dũng Hiền (Vìra
Bhadra hay Vemacitra ), vị Thánh trong hàng A Tu La. MA thể hiện cho ánh sáng
của Thành Sở Tác Trí (Krïtya musïtïhàna jnõàna) hướng dẫn chúng sinh vượt qua
phương Bắc vào thế giới Thanh Tịnh Diệu Hạnh Thành Tựu của Đức Phật Bất Không
Thành Tựu (Amogha siddhi).
NÏI màu vàng, âm vận biểu
hiện cho Trí Tuệ bao hàm Thân, Khẩu, Ý, Đức và Hạnh. NÏI hoán chuyển bản tính
vượt qua Thế gian luân hồi khổ não. NÏI biểu hiện cho năng lực Thần thông Du Hý
rộng lớn bao trùm tất cả, tùy duyên thị hiện của Đức Đại Bi Quán Thế Âm. NÏI là
tính thể của Trì Giới Ba La Mật, hay diệt trừ sự si mê, là nguyên nhân đưa đến
sự sinh già bệnh chết của loài người. NÏI đồng với hình tướng và công hạnh của
Đức Thích Ca Mâu Ni (‘Sàkya Munïi) hóa thân của những vị Thánh trong loài
người. NÏI thể hiện ánh sáng Trí Tuệ Thần thông diệu dụng, dẫn dắt chúng sinh
vào thế giới Thanh Tịnh Viên Mãn của Đức Phật Thứ Sáu là Ngài Chấp Kim Cương
(Vajra dhàra – Trì Kim Cương).
PAD màu xanh da trời, âm vận
tiêu biểu cho bản thân (THÂN) , thể hiện Thần thông du hý bình đẳng vô tận của
Đức Đại Bi Quán Thế Âm. PAD là tính thể của Tinh Tiến Ba La Mật có công năng
diệt trừ sự vô minh, là nguyên nhân đưa đến các sự khổ đau của cõi Súc sinh.
PAD đồng với hình tướng và công hạnh của Ngài Sư Tử Dũng Mãnh (Simïha Ugra hay
Dhruva simïha ), vị Thánh trong cõi Súc sinh. PAD là ánh sáng Pháp giới Thể
Tính Trí (Dharma dhàtu parakrïti jnõàna) hướng dẫn 06 loài chúng sinh đi vào
Thế Giới Trung Ương Mật Nghiêm của Đức Phật Tỳ Lô Giá Na (Vairocana).
ME màu đỏ, âm vận của ngôn
ngữ (KHẨU) biểu hiện cho năng lực Thần thông an lạc vô tận của Đức Đại Bi Quán
Thế Âm ban bố cho tất cả chúng sinh. ME là tính thể của Bố Thí Ba La Mật có
công năng tẩy trừ tính tham lam, tham dục, keo kiệt là nguồn gốc sinh ra sự khổ
não đói khát của loài Ngạ Quỷ. ME đồng hóa với sắc thân và công hạnh của Tiêu
Diện Đại Sĩ (Diệm Khẩu – Jvala Mukha ) vị Thánh trong cõi Ngạ Quỷ. ME là ứng
hiện của ánh sáng Diệu Quán Sát Trí (Pratyave Ksïana jnõàna) hướng dẫn chúng
sinh vượt qua phương Tây đi vào Thế giới Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà
(Amitàbha).
HÙMÏ màu đen, âm vận của ý,
biểu hiện cho năng lực Thần thông du hý của Tâm Từ vô tận mà Đức Quán Thế Âm đã
nhìn tất cả chúng sinh như con một của Ngài. HÙMÏ là tính thể của Trí Tuệ Ba La
Mật, có công năng tiêu trừ tính giận dữ và thù hận là nguyên nhân đưa đến quả
báo phải chịu cực hình khổ não ở cõi Địa ngục. HÙMÏ đồng với sắc tướng và công
hạnh của Đức Diêm La Pháp Vương (Yama dharma Ràjà hay Dharmaràja ), vị Thánh
cứu tinh cho chúng sinh trong cõi Địa ngục. HÙMÏ là ứng hiện của ánh sáng Đại
Viên Kính Trí (Adar’sa jnõàna) hướng dẫn chúng sinh vượt qua phương Đông đi vào
Thế giới Diệu Lạc của Đức Phật Bất Động (Aksïobhya).
Ngoài ra, các danh sư Tây
Tạng còn cho biết rằng 06 chữ này có rất nhiều nghĩa lý nhiệm màu bí mật, không
ai có thể hiểu biết hết được. Tuy nhiên, do câu chú này quá thông dụng lại có
công năng vô cùng màu nhiệm nên được nhiều nhà Luận giải giải thích theo sự
hiểu biết của riêng mình. Tựu trung đối với giáo đồ Phật giáoTây Tạng thì Lục
Tự Đại Minh Chú đã trở thành câu chú tiêu biểu cho Tâm Đại Bi và sự ân sủng của
tất cả chư Phật Bồ tát, nhất là ân sũng của Đức Quán Thế Âm Bồ Tát nhằm cứu độ
muôn loài thoát khỏi mọi ách nạn khổ đau, đồng thời nhân dân Tây Tạng rất tin
tưởng rằng Bồ Tát Quán Thế Âm là một vị Phật của lòng Bi mẫn, là vị Thần hộ
mệnh bậc nhất của dân tộc (Chenresi – Thần Hộ mệnh của Núi Tuyết).
Ngày nay, khắp mọi nơi ở Tây
Tạng: trong những điệp khúc cầu nguyện, trên những hòn đá ở những đỉnh núi cao,
trên những bia đá, trên những lá cờ, trên vật khí chuyển pháp luân, trên đôi
môi của dân chúng … đều có thể nhận thấy sự hiện hữu của Minh Chú này.
- Theo truyền thống Hoa văn
thì Lục Tự Đại Minh Chú chỉ xuất hiện trong bài Quán Âm Linh Cảm Chân Ngôn,
Nghi thức Ngũ Bộ Chú, Kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương … nhưng bài chú này
lại được truyền bá rất rộng rãi trong nhân gian đến nỗi hầu nhưng người ta chỉ
xem đó là câu chú bình thường chuyên trừ tà ma, giải nạn chướng, trị liệu bệnh
tật … mà không hề hay biết đến tính chất vi diệu rất bí mật của Lục Tự Đại Minh
Chú.
Kinh Đại Thừa Trang Nghiêm
Bảo Vương (Karanïdïe Vyuha Sùtra) ghi rằng: “Thiện nam tử ! Sáu chữ Đại
Minh Đà La Ni đó là Bản Tâm vi diệu của Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát. Nếu biết Bản
Tâm vi diệu ấy, tức biết giải thoát”.
Đức Phật nói: “ Nếu có người
thường thọ trì 06 chữ Đại Minh Đà La Ni thì khi trì tụng có 99 căng già sa số
Như Lai nhóm hội, có vô số Bồ Tát nhiều như vi trần nhóm hội, cũng có chúng
Thiên tử ở 32 cõi Trời cũng đều nhóm hội. Lại có 04 vị Đại Thiên Vương ở 04 phương
làm hộ vệ. Có Ta Nga La Long Vương (Sàgara Nàgaràjà), Vô Nhiệt Não Long Vương
(Anavatapta Nàgaràja), Đắc Xoa Ca Long Vương (Taksïaka Nàgaràja), Phạ Tô Chỉ
Long Vương (Vàsuki Nàgaràja). Như vậy, vô số trăm ngàn câu chi na khế đa Long
Vương đều đến hộ vệ người thọ trì ấy. Lại ở khắp trong cõi đất, hết thảy các
Dược Xoa (Yaksïa), Hư Không Thần (Àka’sa Devatà) đến hộ vệ.
Thiện nam Tử ! Trong lỗ chân
lông Ngài Quán Tự Tại có trăm ức Như Lai an trụ và khen ngợi người trì tụng ấy:
“Lành thay ! Lành thay Thiện nam tử ! Ngươi hay được Như Ý Ma Ni Bảo, 07 đời
giòng họ của ngươi sẽ được giải thoát”.
Thiện nam tử ! Người Trì Minh
kia, ở trong bụng có các loài trùng thì chúng sẽ được địa vị Bất Thoái Chuyển
của Bồ Tát. Nếu có người lấy 06 chữ Đại Minh Đà La Ni này mà đeo giữ nơi thân,
trên đỉnh. Thiện nam tử ! Nếu thấy được người đeo giữ ấy thì cũng như thấy Thân
Kim Cương, như thấy Tháp Xá Lợi, như thấy Đức Như Lai, như thấy một trăm ức Trí
tuệ.
Nếu có Thiện nam Tín nữ nào
hay y Pháp, niệm 06 chữ Đại Minh Đà La Ni này thì người đó sẽ được biện tài vô
ngại, được Trí Tuệ Thanh Tịnh, được Đại Từ Bi. Như vậy, người đó ngày ngày được
viên mãn công Đức của 06 Pháp Ba La mật Đa. Người đó được Trời Chuyển Luân
Thánh Vương quán đỉnh. Khi người ấy nói, hơi từ trong miệng phát ra chạm đến
thân người nào thì người được chạm ấy phát khởi Tâm Lành xa lìa Tâm Sân độc, sẽ
được địa vị Bất Thoái Chuyển của Bồ Tát và mau chóng chứng đắc Vô Thượng Bồ Đề
Chính Đẳng Chính Giác.
Nếu người đeo giữ và thọ trì,
lấy tay chạm đến thân người khác thì người được rờ chạm ấy mau được Bồ tát vị.
Nếu kẻ nam, người nữ, con trai, con gái cho đến dị loại Hữu Tình khác thấy được
người đeo và thọ trì ấy thì tất cả mau được Bồ Tát vị. Người như thế vĩnh viễn
không còn chịu khổ: sinh, già, bệnh, chết, khổ thương nhau xa lìa … mà được sự
niệm tụng tương ương không thể nghĩ bàn. Nay như thật mà nói lên 06 chữ Đại
Minh Đà La Ni vậy!”.
Đức Phật lại bảo rằng: “Nếu
có người biên chép 06 chữ Đại Minh Đà La Ni này thì đồng với chép 84.000 Pháp
Tạng. Nếu có người lấy vàng báu cõi Trời tạo hình tượng Như Lai Ứng Chính Đẳng
Giác, số như vi trần, làm như vậy rồi, nói một ngày khánh lễ tán dương cúng
dường, chỗ thu hoạch quả báo không bằng đã được quả Công Đức biên chép một chữ
trong 06 chữ Đại Minh Đà La Ni ấy, đã khéo an trụ nơi Đạo Giải Thoát không thể
nghĩ bàn.
Nếu Thiện nam và Thiện nữ, y
Pháp niệm 06 chữ Đại Minh Đà La Ni này thì người đó sẽ đắc Tam Ma Địa gọi là:
Trì Ma Ni Bảo Tam Ma Địa, Quảng Bác Tam Ma Địa, Thanh Tịnh Địa Ngục Bàng
Sinh Tam Ma Địa, Kim Cương Giáp Trụ Tam Ma Địa, Diệu Túc Bình Mãn Tam Ma Địa,
Nhập Chư Phương Tiện Tam Ma Địa, Nhập Chư Pháp Tam Ma Địa, Quán Trang Nghiêm
Tam Ma Địa, Pháp Xa Thanh Tam Ma Địa, Viễn Ly Tham Sân Ô Tam Ma Địa, Vô Biên Tế
Tam Ma Địa, Lục Ba La Mật Môn Tam Ma Địa, Trì Đại Diệu Cao Tam Ma Địa, Cứu Chư
Bố Úy Tam Ma Địa, Hiện Chư Phật Sát Tam Ma Địa, Quán Sát Chư Phật Tam Ma Địa …
được 108 món Tam Ma Địa như vậy”.
Kinh này lại ghi rằng: Trừ
Cái Chương ! Tất cả Như Lai Mẫu Bát Nhã Ba La Mật Đa tuyên nói 06 chữ Đại Minh
Vương như thế. Tất cả Như Lai Ứng Chính Đẳng Giác và các Bồ Tát, tất cả đều
cung kính chắp tay làm lễ. Thiện nam tử ! Ở trong Pháp Đại Thừa thì đây là tối
thượng tinh thuần vi diệu”.
Lại nữa, Kinh Đại Thừa Trang
Nghiêm Bảo Vương còn ghi nhận quá trình hóa độ các chúng sinh trong 06 nẻo luân
hồi của Đức Đại Bi Quán Tự tại và minh họa công đức uy thần, năng lực cứu độ vi
diệu của Ngài đồng thời khẳng định rằng mọi công đức uy thần mà Ngài có được
đều là thành quả của sự chứng đắc Lục Tự Đại Minh Chú.
Dựa trên công đức uy thần,
năng lực hóa độ các chúng sinh trong 06 nẻo luân hồi của Đức Đại Bi Quán Tự
Tại, hệ Đông Mật của Nhật Bản đã ghi nhận 06 vị Quán Âm là 06 Hóa Tôn của 06
Đạo.
1. Hóa
Tôn Địa Ngục Đạo là: Thánh Quán Âm (Àryà Avalokite’Svara)
2. Hóa
Tôn Ngạ Quỷ Đạo là: Thiên Thủ Quán Âm (Sahasra Bhùja Avalokite’Svara)
3. Hóa
Tôn Súc Sinh Đạo là: Mã Đầu Quán Âm (Hàyagriva Avalokite’Svara)
4. Hóa
Tôn Tu La Đạo là: Thập Nhất Diện Quán Âm (Eka Da’sa Mukha Avalokite’Svara)
5. Hóa
Tôn Nhân gian Đạo là: Chuẩn Đề Quán Âm (Cudhe Avalokite’Svara)
6. Hóa
Tôn Thiên Đạo là: Như Ý Luân Quán Âm (Cinta Manïi Cakra Avalokite’Svara)
Hệ Thai Mật của Nhật
Bản thì thay Chuẩn Đề Quán Âm bằng Bất Không Quyến Sách Quán Âm (Amogha pà’sa
Avalokite’svara).
- Ma Ha Chỉ Quán (quyển 2,
phần Thượng) cũng ghi nhận 06 vị Quán Âm là:
1. Đại
Bi Quán Thế Âm: phá 03 chướng của nẻo Địa Ngục.
2. Đại
Từ Quán Thế Âm: phá 03 chướng của nẻo Ngạ Quỷ.
3. Sư
Tử Vô Úy Quán Thế Âm: phá 03 chướng của nẻo Súc Sinh.
4. Đại
Quang Phổ Chiếu Quán Thế Âm: phá 03 chướng của nẻo Tu La.
5. Thiên
Nhân Trượng Phu Quán Thế Âm: phá 03 chướng của nẻo Nhân Gian.
6. Đại
Phạm Tấn Tật Quán Thế Âm: phá 03 chướng của nẻo Thiên Giới.
Tóm lại, qua mọi truyền thống
về Lục Tự Đại Minh Chú, các bậc Đạo sư Mật Giáo đều công nhận Minh Chú này
chính là biểu tượng của Bản Tâm Đại Từ Đại Bi của Đức Quán Thế Âm Bồ Tát và
cũng là Trí tuệ tinh túy của tất cả chư Phật 10 phương, hàm chứa mọi phước báo
của Thế Gian và Xuất Thế Gian, nên phải dốc sức tin kính trì niệm, y Pháp phụng
hành để mau chóng cùng nhau vượt thoát mọi sự khổ đau, chấm dứt vòng sinh tử
luân hồi.
VÀI Ý NGHĨA CƠ BẢN CỦA LỤC TỰ
ĐẠI MINH CHÚ
I.
Quan điểm của Mật giáo Ấn Độ:
Theo truyền thuyết của Ấn Độ,
khi trời đất mới hình thành, từ trong lỗ rốn của Tỳ Lữu Noa (Visïnïu) sinh ra
một hoa sen, bên trong hoa sen có một vị Phạm Thiên ngồi Kiết già và sáng tạo
ra vạn vật. Một trong các sự bí mật của sự sáng tạo là âm thanh (svara) hay sự
rung động. Do sự rung động này mới phát sinh ra bản tính của các sự vật và hiện
tượng sinh hoạt. Tỳ Lữu Noa và vị Thần phối ngẫu đều dùng hoa sen làm biểu
tượng.
Kinh Vệ đà có ghi: “Vũ trụ
tạo lập do sự phối hợp các âm thanh”.
Chân dogya Upanisïad ghi
rằng:
Bản thể của vạn vật là đất
Bản thể của đất là nước
Bản thể của nước là cây cối
Bản thể của cây cối là người
Bản thể của người là lời nói
Bản thể của lời nói là thi ca
Vệ đà.
Bản thể của thi ca Vệ Đà là
âm nhạc Vệ Đà
Bản thể của âm nhạc Vệ Đà là
Udgìtha (Tên gồm 3 chủng âm của Thượng đế).
Udgìtha (OMÏ) là bản thể tối
hảo, tối cao trong các bản thể và xứng đáng với vị thế cao nhất: vị thế thứ
tám.
Như vậy, OMÏ là phần tinh
tuý, là chủng tử âm của vũ trụ, là tiếng thần diệu, là vũ trụ lực, là tâm thức
thâm nhập tất cả.
Dựa vào năng lực sáng tạo
này, hệ thống Mật giáo Ấn Độ đã dùng Lục Tự Đại Minh chú là phương tiện để chế
ngự và chỉ huy luồng sinh lực trong bản thân nhằm hòa nhập vào nguồn sinh lực
tối cao tối thượng của vũ trụ, thọ nhận niềm hạnh phúc hoàn hảo nhất và đạt
được sự sáng tạo tối thượng.
Theo hệ thống này thì OMÏ
được kết hợp bởi 3 âm A, U, MA. Trong đó, A là Visïnïu tức là Đấng Phòng hộ bảo
toàn. U là ‘Siva tức là Đấng Tồi phá hủy diệt. MA là Bràhma tức là Đấng sáng
tạo. Do đó, âm OMÏ là tên gồm 3 chủng tử âm của Thượng Đế (Udgìtha) biểu thượng
cho Tam Thần nhất thể (Trimurti) là nguồn sinh lực tối cao tối thượng của vũ
trụ.
MANÏI (fim ) là viên
ngọc báu có khả năng dứt trừ mọi tai nạn bệnh tật và hay sinh ra mọi báu làm
thỏa mãn tất cả nhu cầu. Vì thế, MANÏI còn được gọi là Đá Vua hay MANÏI còn
biểu thị cho quyền lực tối thượng.
PADME là bên trong hoa sen.
Hoa sen tượng trưng cho các Luân xa (Cakra) là trung khu tích tụ năng lực. Do
đó, PADME là năng lực tiền ẩn trong các Luân xa.
HÙMÏ được kết hợp bởi 3 âm H
, Ù, MÏ .Trong đó, H là âm của hơi thở, là hợp khí của Bản ngã kết hợp với sự
sống động.Ù là âm của chiều sâu, là ngưỡng cửa của im lặng. MÏ là âm kéo dài
hướng nội tâm, là âm đứng giữa nguyên âm và phụ âm, là sự hòa hợp không tiêu
tán giữa phụ âm và nguyên âm. Chính vì lý do đó mà nó được trình bày bằng một
âm tiêu dưới hình thức một dấu chấm, hay một giọt hoặc một vòng trai nhỏ, tức
là biểu tượng của nhất thể, của tuyệt đối, của cái bất di bất dịch, của cái
vượt bên trên đối đãi. Do đó, HÙMÏ là sự sống động, sự thành tựu trong đời sống
cao thượng.
Như vậy, OMÏ MANÏI PADME HÙMÏ
được diễn dịch là: “Khi một cá nhân nắm vững được sự sống động (tức là nguồn
sinh lực tiềm ẩn trong thân) thì sẽ khai mở được năng lực tiềm ẩn trong các
Luân xa và đạt được quyền năng sáng tạo tối thượng để hòa nhập vào luồng sinh
khí tối cao của vũ trụ, thọ hưởng niềm an lạc vĩnh cửu.”
Theo hệ thống này thì Thần
Visïnïu tức là Trí tuệ cư ngụ nơi Cực Dương ở đỉnh sọ não. Thiên nữ Kunïdïalini
biểu thị cho năng lực sáng tạo ra vũ trụ cư ngụ nơi Cực Âm ở đốt xương sống
cuối cùng. Nếu người hành Thiền Định sau khi điều hòa hơi thở, chế ngự được các
quan năng, tập trung ý chí trì niệm Thần chú đánh thức Thiên nữ Kunïdïalini rồi
dẫn nàng vượt qua các Luân xa đến phối ngẫu với Visïnïu. Khi ấy, Hành Giả sẽ
đạt được trạng thái xuất thần nhập hóa, hòa tan làm một với Đại ngã (Bràhman –
Phạm Thể).
Như Munïdïara Upanisïad có
ghi:
“Đã dùng vũ khí lớn là Thánh
Học Bí Mật để làm cung
Người ta đặt vào đó cái mũi
tên nhọn là sự Thiền Định liên tục không dứt
Người ta giương cung với tinh
thần tràn đầy cái ấy (Tâm thức phổ quát hay Bràhman)
Này chàng trai cao quý ! Nó
sẽ xuyên qua mục đích của nó là sự bất diệt.
Âm Thiêng là Cung, Mũi tên là
Ngã, Bràhman là đích
Nhờ sự chú ý, nó sẽ xuyên qua
Phải hiệp với nó như mũi tên
đến đích”
Một khi Hành giả đạt đến
trạng thái hợp nhất với Đại Ngã (Hợp nhất chứ không đồng hóa với Đại Ngã) thì
Hành giả vượt thoát khỏi mọi sự trói buộc của Thế Gian Huyễn ảo (Màyà) và trở
thành Bràhman, có cái Đại Giác và năng lực của Bràhman.
II. Quan điểm của Mật giáo
Tây Tạng:
1. Theo ý nghĩa phổ
truyền thì:
OMÏ MANÏI PADME HÙMÏ được
dịch là “Quy y viên ngọc báu trong hoa sen” và được người Tây Tạng diễn tả là:
Khi lòng Đại Bi (Màhà Karunïi) hoàn toàn khai mở như một hoa sen (Padme) vươn
lên khỏi vũng bùn và bắt đầu nở hoa thì hương Từ (Maitriya) của Trí Tuệ (Manïi)
bắt đầu tỏa ra khắp nơi và mọi hành động của Thân, Khẩu, Ý (OMÏ) mới thực sự
phản ánh trọn vẹn đúng như cái ý nghĩa cao đẹp nhất của sự sống (HÙMÏ).
Theo truyền thống này thì:
OMÏ có nghĩa Quy mệnh
hay là 3 nghiệp Thân Khẩu, Ý.
MANÏI là viên ngọc Như
Ý trong Trí tuệ sáng chói.
PADME là bên trong hoa sen,
hay lòng Đại Bi nảy nở như hoa sen ló khỏi vũng bùn.
HÙMÏ là ý nghĩa cao đẹp
của sự sống.
Ngoài cách diễn dịch trên,
nhân dân Tây Tạng còn nhận định ý nghĩa của câu chú 6 chữ này là: “Khi lòng Từ
Bi phát triển trọn vẹn như một bông sen vươn cao khỏi vũng bùn Vô Minh thì ánh
sáng trí tuệ mới chiếu sáng rực rỡ được”.
2. Theo ý nghĩa phổ
truyền khác thì:
OMÏ : trượng trưng cho sự hòa
hợp của Trí Tuệ và Thân, Khẩu, Ý đã giác ngộ.
MANÏI : Ngọc Như ý, là viên
ngọc quý được cầm nơi tay của Đại Bồ Tát, tượng trưng cho sự thanh tịnh.
PADME : Là hoa sen, tượng
trưng cho người đã giải thoát tự tại ngoài sinh tử luân hồi. Vì hoa sen mọc từ
bùn nhơ nhưng không bị nhiễm bùn, ám chỉ Đại Bồ Tát không còn bị ràng buộc bởi
Nghiệp Báo và Sinh tử. Ngài đã hoàn toàn tự tại ngoài vòng khổ đau và luân hồi
nhưng Ngài không an trụ cho riêng Ngài.
HÙMÏ : Tượng trưng cho Trí
Tuệ thành tựu siêu việt của chư Phật, có tác động mãnh liệt xóa tan sự khổ não
của Thế Gian.
Truyền thống này còn phối hợp
06 chữ của Lục Tự Đại Minh Chú với 06 Ba La Mật là:
OMÏ : Biểu tượng cho sự viên
mãn Thiền Định Ba La Mật (Dhyàna pàramita), dứt bỏ Nhân luân hồi ở Thiên Giới.
MA: Biểu tượng cho sự viên
mãn Nhẫn Nhục Ba La Mật (Ksïànti pàramita) dứt bỏ Nhân luân hồi ở Tu La Giới.
NÏI : Biểu tượng cho sự viên
mãn Trì Giới Ba La Mật (‘Sìla pàramita) dứt bỏ Nhân luân hồi ở Nhân Gian Giới.
PAD: Biểu tượng cho sự viên
mãn Tinh Tiến Ba La Mật (Vìrya pàramita) dứt bỏ Nhân luân hồi ở Súc Sinh Giới.
ME : Biểu tượng cho sự viên
mãn Bố Thí Ba La Mật (Dàna pàramita) dứt bỏ Nhân luân hồi ở Ngạ Quỷ Giới.
HÙMÏ : Biểu tượng cho sự viên
mãn Trí Tuệ Ba La Mật (Prajnõà pàramita) dứt bỏ Nhân luân hồi ở Địa Ngục Giới.
Như vậy, truyền thống này
dùng Công Đức uy thần và năng lực Thần Thông hóa độ vi diệu của Đức Đại Bi Quán
Thế Âm mà diễn tả ý nghĩa của Lục Tự Đại Minh Chú .
3. Theo quan điểm khác
thì:
OMÏ : là huyền âm sáng tạo
nên không thể giải thích hay nghĩ bàn.
MANÏI : Tượng trưng cho cõi Niết
Bàn (Nirvànïa)
PADME : Tượng trưng cho Thế
giới Vô Minh hay Địa Ngục (Sïamsara: vòng luân hồi)
HÙMÏ : là huyền âm thể nhập.
Do đó, Lục Tự Đại Minh Chú
minh họa cho tư tưởng: “ Khi Vô Minh thì Thế Gian là sự đau khổ, khi Giác ngộ
thì Thế Gian chính là cõi Niết Bàn. Cũng như viên ngọc quý nằm trong hoa sen
thì Niết Bàn thật ra không ở đâu xa mà chính là Thế giới Vô Minh này”.
4. Lại có quan điểm cho
rằng:
OMÏ : là tiếng kêu cứu của
chúng sinh đang đau khổ.
MANÏI : là ngọc quý hay Trí
tuệ.
PADME : là hoa sen hay Từ Bi.
HÙMÏ : là phát tâm cao
thượng, cương quyết phát triển hai đức tính Từ Bi và Trí Tuệ để thoát khỏi sinh
tử luân hồi.
Do đó, Lục Tự Đại Minh Chú
được diễn giải là: “Khi nghe thấy tiếng kêu cứu của chúng sinh thì chư Phật Bồ
tát thương xót, nên đem giáo pháp ra truyền dạy để cứu vớt họ. Muốn thoát khỏi
vòng luân hồi khổ đau thì phải biết phát triển Trí Tuệ và chỉ có Trí Tuệ mới
đem lại sự hiểu biết một cách chính xác như thật, có nhìn rõ ràng mọi vật thì
mới biết đâu là thật, đâu là giả để tìm đường giải thoát. Nhưng có Trí Tuệ vẫn
chưa đủ mà phải biết phát triển cả lòng Từ Bi nữa. Vì thiếu Từ Bi, người tu
hành sẽ trở nên khô khan khắc khổ, chán ngán Thế gian rồi khởi Tâm phân
biệt mà bị vướng mắc. Như viên ngọc sáng cần có hoa sen đỡ lấy che chở thì mới
vươn lên khỏi vũng bùn và chiếu sáng được. Vì thế, Từ Bi và Trí Tuệ là hai đức
tính cần có”.
Do vậy, khi thấy sự đau khổ
của Thế gian, Hành giả phải biết tu tập phát triển Trí Tuệ và Từ Bi để giải
thoát cho mình và người khác.
5. Trong quyển “Kindness
Clarity and in sight” (Thiện Tri Thức xuất bản )
Đức DaLai LaMa thứ 14 (Tezin Gyatso) giải thích 06 chữ của Lục Tự Đại Minh Chú
là:
- OMÏ : tạo bằng 03 chữ A , U
, M tượng trưng cho Thân, Ngữ và Tâm thức bất tịnh của Thiền giả (Người
hành Thiền), chúng cũng tượng trưng cho Thân, Ngữ và Tâm Thức thanh tịnh tuyệt
vời của một vị Phật.
- MANÏI : viên ngọc, tượng
trưng những yếu tố của phương tiện; ý định vị tha đạt đến giác ngộ, Đại Bi, Đại
Từ như một viên ngọc chấm dứt sự nghèo khổ. Ý định vị tha được giác ngộ và có
quyền lực loại bỏ sự thống khổ và những khó khăn trắc trở của vòng sinh tử và
sự giải thoát riêng cho cá nhân mình. Như một viên ngọc lấp đầy những nguyện
vọng của những chúng sinh, ý định vị tha được giác ngộ thành tựu những mong mỏi
của họ.
- PADME : là hoa sen, tượng
trưng cho Trí Tuệ. Bởi vì cũng như hoa sen mọc lên trong bùn mà không dơ nhiễm
bởi sự bất tịnh của bùn. Trí Tuệ có quyền lực làm cho chúng ta trọn vẹn. Còn
khi không có nó, chúng ta rơi vào mâu thuẫn.
- HÙMÏ : dấu hiệu hợp nhất
của phương tiện và Trí Tuệ để cho sự tịnh hóa hoàn toàn.
Sự không phân biệt là sự kiện
một Tâm thức mà trong đó phương tiện và Trí Tuệ trong hình thức hoàn mãn của
chúng, kết hợp với nhau thành một thực thể không phân biệt. HÙMÏ là âm chủng tự
của A Súc Bệ Phật (Aksïobhya – Bất Động ) bất động bất loạn vì không có gì có
thể tác động.
Tóm lại, qua con đường thực
hành, trong sự phối hợp không thể phân chia của phương tiện và Trí Tuệ, chúng
ta có khả năng làm cho Thân, ngữ, Tâm bất tịnh của mình thành Thân, Ngữ, Tâm
siêu việt của một vị Phật. Phật Tính (Buddhatà) không thể tìm được ở đâu khác
ngoài tự nơi mình vì những yếu tố cần thiết cho sự thành tựu của nó thì ở nơi
chúng ta.
6. Theo Đạo sư Tang Tong
Gyalbo
(Thang stongr Gayalbo) thì Lục Tự Đại Minh Chân ngôn được coi là sự chứa đựng,
sự tập trung của tất cả năng lực thiêng liêng phát ra từ lòng Đại Bi và sự đại
diệu dụng của Đức Quán Thế Âm Bồ Tát. Trong đó:
OMÏ : bao gồm 05 loại hình
tượng và Trí Tuệ của Phật.
MANÏI : có nghĩa là viên ngọc
báu (Bảo châu)
PADME : có nghĩa là hoa sen (
Liên Hoa)
Hợp hai nghĩa này với nhau
thì MANÏI PADME có nghĩa là: “Ngài là Bậc Thủ Trì Liên Hoa và Bảo Châu” và đây
cũng chính là Biệt hiệu khác của Quán Âm.
HÙMÏ : có công năng bảo hộ
chúng sinh trong 06 nẻo.
Như vậy, ý nghĩa của Lục Tự
Chân ngôn là: “Hỡi Bậc Đạo sư của 05 Phật Thân và 05 Trí Như Lai, Bậc Thủ Trì
Liên Hoa và Bảo Châu! Xin Ngài hoan hỷ gia hộ cho chúng sinh trong 06 nẻo vượt
qua các thống khổ”.
Đạo sư Tang Tong Gyalbo nhấn
mạnh rằng Chân ngôn này có nhiều sự giải thích khác nhau. Tuy nhiên khi Trì
Tụng không cần thiết phải nghĩ tới tất cả ý nghĩa ấy, chỉ một âm thanh của Lục
Tự này vốn hàm chứa sức mạnh đơn thuần cố hữu sẽ tự nhiên truyền đạt Trí Tuệ và
Từ Bi của Quán Thế Âm Bồ Tát cho Hành giả và từ đó, qua Hành giả, nó sẽ truyền
đạt đến tất cả chúng sinh.
III. Quan điểm của Mật giáo
Trung Hoa và Nhật Bản:
Theo truyền thống của Mật
Giáo Trung Hoa và Nhật Bản, hầu như các bậc Đạo Sư chỉ chú ý vào phương pháp Tu
Trì, thực hành Lục Tự Đại Minh Chú chứ không giải thích ý nghĩa của nó. Thế
nhưng, qua quá trình tham khảo, chúng tôi nhận thấy các bậc Đạo Sư Mật Giáo lại
rải rác giải thích ý nghĩa của từng câu chữ trong Lục Tự Đại Minh Chú, nên mạnh
dạn kết hợp thành nghĩa thú như sau:
- OMÏ (輆 ) được kết hợp bởi 03
chữ A , U , MA . Trong đó:
A (狣) là “Tất cả Pháp vốn chẳng
sinh” nên A mang nghĩa của Pháp Thân (Dharma Kàya) hay Thân phổ biến, là
thực trạng giống nhau đối với tất cả các Đấng Giác Ngộ. Tức là kinh nghiệm về
tổng thể, về thực tại siêu nhân vị và sâu nhất của Pháp, của cơ sở nguyên sơ.
Từ đó, lưu xuất mọi trật tự: vật lý, luân lý, tinh thần và siêu việt.
U (珈) là “Tất cả Pháp Thí Dụ
chẳng thể đắc” nên U mang nghĩa của Báo Thân (Samïbhoga Kàya) hay Thân an lạc,
là thực trạng lý tưởng hay đặc tính Trí Tuệ của một vị Phật. Tức là trạng huống
sáng tạo của nguyên lý trong lĩnh vực của thực tại lý tưởng và gây cảm hứng. Từ
đó, xuất phát mọi cảm kích sâu sắc.
MA (亙) là “Tất cả Pháp Vô Ngã
chẳng thể đắc” nên Ma mang nghĩa của Hóa Thân (Nirmana kàya) hay Thân biến hóa,
là thực trạng cá vị trong đó sự cảm kích biến thành hiện tướng và hành động
trông thấy được. Tức là sự Thể nhập thành nhân vị hay cá vị của một Bậc Giác
Ngộ.
Do đó, OMÏ nhiếp nghĩa vô
biên, là đầu mối của các chữ. Tức là nơi phát sinh của tât cả các Pháp. Từ đây,
OMÏ là MẪU của các Đà La Ni nên thường đặt ở đầu câu. Ngoài ra, tùy theo ý
nghĩa của câu chú theo sau mà OMÏ biểu thị cho các nghĩa: Tam Thân ( 03 thân),
Quy Mệnh, Cúng Dường, Cảnh giác, Nhiếp phục.
Đối với cá nhân Hành giả, thì
OMÏ được xem là sự hợp nhất của 03 Mật (Thân mật, Khẩu mật, Ý mật) và tiền đề
của 3 Mật là cần phải trau dồi Thân, Khẩu, Ý cho thật trong sạch. Chỉ khi nào
giữ vững được Thân, Khẩu, Ý thì mới có thể bước chân vào con được tu trì. Vì
thế OMÏ được xem là biểu tượng cho sức cố gắng phổ quát của sự giải thoát, tức
biểu tượng này không phải là mục đích cuối cùng (như quan điểm của Ấn Độ Giáo)
mà chính là điều kiện đầu tiên của chân giải thoát và của sự chứng ngộ hoàn
toàn (Quan điểm của Phật giáo).
Lại nữa, trong Ngũ Trí Như Lai
Man Đa La của Mật giáo Tây Tạng thì OMÏ là chủng tử của Đức Tỳ Lô Giá Na Như
Lai (Vairocana Tathàgata) biểu tượng cho yếu tố trong sáng của Tâm thức đang
rạng tỏa khắp Pháp giới (Dharma Dhàtu) mang sức mạnh sáng tác và tràn đầy tính
khoan dung, hỷ xả, thông cảm mọi tư tưởng, chấp nhận sự tự do cá nhân, định
đoạt giáo nghĩa theo tinh thần sống động không giáo điều. Cho nên, OMÏ đại diện
cho sự hiểu biết chân chính và cũng là nền tảng của các Pháp trong Phật giáo.
Như vậy, trong Lục Tự Đại
Minh Chú thì OMÏ biểu tượng cho nền tảng căn bản của sự giải thoát, là “Sự hiểu
biết chân chính”.
- MANÏI (亙仗) là viên ngọc Như ý, biểu thị
cho giá trị vô thượng, nhờ nó mà mọi ước nguyện được thỏa mãn. Nên thông thường
MANÏI tượng trưng cho Đức Pháp Tài của chư Phật Bồ tát, thường hay tuôn mưa tài
bảo của Thế gian và Xuất Thế gian để làm thỏa mãn các mong cầu của chúng sinh.
Tuy nhiên, ngay từ hình thức
ban đầu, Phật giáo đã xác nhận viên ngọc quý là một biểu tượng của 3 nơi chứa
đựng sự giác ngộ, đó là:
Phật (Buddha) tức các Đấng
Giác Ngộ.
Pháp (Dharma) tức Chân lý đưa
đến giác ngộ.
Tăng (Sanõgha) tức là cộng
đồng tu sĩ hay những người đang tiến bước trên con đường Giác ngộ.
Như vậy, theo Phật giáo thì
giá trị vô thượng là sự giác ngộ viên mãn. Nhờ vào ánh sáng tỏa rạng từ sự giác
ngộ mà mọi tối tăm mê mờ của Tâm Thức không còn khả năng trói buộc con người
chìm đắm trong dòng sinh tử khổ đau nữa. Chính vì thế cho nên người nào có được
viên ngọc quý tỏa rạng ấy thì người đó thoát khỏi vòng luân hồi, đồng thời viên
ngọc quý không thể tìm thấy ở bất cứ nơi nào khác ngoài đóa sen (Padma) trong
Tâm Ta.
Giáo thuyết của Kim Cương
Thừa (Vajra Yàna) xác nhận là: “Những kẻ nào tìm thấy trong tâm có viên ngọc
Như ý thì nó sẽ tỏa rạng Trí Tuệ giác ngộ, lúc đó kẻ ấy sẽ biến cái Thức sinh
diệt thành cái Trí vĩnh cửu, nhận ra vô biên trong hữu hạn và chuyển sự phiền
não luân hồi thành Niết Bàn tự tại”.
Như vậy, trong Lục Tự Đại
Minh Chú, MANÏI không mang ý nghĩa về phước báu mà được biểu tượng cho Trí Tuệ
sáng chói hay Phật tính bất sinh bất diệt vốn có sẵn trong Tâm của mỗi một
chúng sinh.
- PADME (扔榰 ) là bên trong hoa sen.
Theo Phật giáo, hoa sen
(Padma) là một hình ảnh biểu tượng cho sự thuần khiết trong trắng không hề bị ô
nhiễm. Ý nghĩa căn nguyên của hoa sen đều được diễn tả là: “Hoa sen mọc từ bùn
đen, vươn lên khỏi mặt nước, ra khỏi mặt nước mới nở hoa và tỏa hương thơm tinh
khiết. Mặc dù sinh trưởng từ bùn đen và nước bẩn nhưng nó không hề bị nhiễm sự
dơ bẩn của những thứ này”.
Dựa vào hình ảnh ấy, giáo đồ
Phật giáo nhận định rằng:
- Hạt sen: Biểu thị cho hạt
giống của Tâm Bồ Đề (Bodhicitta) cực tĩnh vốn có của tất cả chúng sinh, dù bị
trôi lăn trong bùn lầy sinh tử nhưng không hề mất đi bản tính thanh thịnh vốn
có.
- Nảy nở trong bùn đen nước
bẩn: Biểu thị cho sự tinh tiến tu tập phạm hạnh (Bràhma càrya) phát huy bản
tính thanh tĩnh vốn có trong bùn lầy chuớng ngại phiền não và nước bẩn sinh tử.
- Vươn lên khỏi mặt nước:
biểu thị cho trạng thái dứt trừ được Kiến Hoặc phiền não.
- Nở hoa: Biểu thị cho sự tu
tập viên mãn các Đức Hạnh cần làm, là mọi hành động tự lợi lợi tha dựa trên
tính cách vô ngã, vô sở chấp. Đây là trạng thái dứt trừ Tư Hoặc phiền não và
Lậu Hoặc phiền não.
- Tỏa hương thơm tinh khiết:
Biểu thị cho mùi thơm lan tỏa của Tâm Từ Bi Hỷ Xả bao trùm mọi hoạt động Thân,
Khẩu, Ý và là trạng thái dứt trừ Trần Sa Hoặc phiền não.
- Hoa nở bày gương sen và hạt
sen: Biểu thị cho Tâm thanh tĩnh (tức gương sen) là vùng đất nâng đỡ hạt giống
Bồ Đề quý báu bất diệt (tức hạt sen) vốn có trong tâm. Đây là trạng thái dứt
trừ Vô Minh hoặc phiền não, tức là chuyển biến sự phiền não luân hồi thành Niết
Bàn Tự tại.
Các trạng thái trên đều minh
họa cho hiện tượng là khi Đức Hạnh và Trí Tuệ nảy nở thì nghiệp phiền não yếu
dần và mất hẳn, tức là “Cái này sinh thì cái kia diệt, cái này diệt thì cái kia
sinh”. Như thế, hoa sen có thể biểu tượng cho Tâm Thức sinh diệt của mỗi một
chúng sinh.
Bí Tạng Ký ghi rằng: “Tâm
phàm phu như hoa sen khép kín, Tâm Thánh Nhân như hoa sen nở rộ”.
Hoặc ghi là: “Trái tim thịt
(Hrïdaya) của chúng sinh có 8 múi vốn là hoa sen tám cánh nhiếp trì mạn đà là
(Manïdïala : Đạo tràng) của các Tôn”.
Theo ý nghĩa này thì hoa sen
(Padma) biểu tượng cho Bản Tâm của chúng sinh và Padme tượng trưng cho ý nghĩa
“Bên trong Bản Tâm”.
Như vậy MANÏI PADME được diễn
dịch là: ‘Trí Tuệ sáng chói trong tâm của chính mình” hay “Phật Tính bất diệt
trong Tâm Thức sinh diệt”.
-
HÙMÏ (嫟 ) được
hợp thành bở 4 chữ A , HA , Ù , MA. Trong đó:
A (狣)là “Tất cả Pháp vốn chẳng
sinh” biểu thị cho nghĩa Pháp Thân, dùng nhiếâp Lý thực tế của tất cả Chân Như
Pháp giới Tính.
HA (成) là “Tất cả NHÂN (hạt giống)
chẳng thể đắc” biểu thị cho nghĩa Báo Thân, dùng nhiếp Giáo tất cả: Trong
ngoài, lớn nhỏ, quyền thực, hiển mật.
Ù (珅) là “ Tất cả Pháp Tổn Giảm
chẳng thể đắc” biểu thị cho nghĩa Ứng Thân, dùng nhiếp Hạnh của tất cả: 3 Thừa,
5 Thừa.
MA (亙) được biểu diễn bằng một
điểm tròn trên đầu chữ là “Tất cả Pháp Ngô Ngã chẳng thể đắc” hay MA là Nhân
Ngã (Atma) tức là vọng tình sở chấp. Nếu lìa được Tổn giảm và Tăng ích liền hợp
với Trung đạo. Do đó, MA biểu thị cho Hóa thân, dùng Pháp vô sở bất nhiếp nhất
thiết quả (không có gì không nhiếp được tất cả Quả).
Do vậy, HÙMÏ biểu thị cho Tâm
Bồ Đề (Bodhicitta) của tất cả Như Lai, là nguyên lý tình thương phổ biến của
Tâm Giác ngộ. Hay HÙMÏ là cửa ngõ của sự thành tựu trong đời qua sự buông bỏ
Bản Ngã và nguyện dâng hiến trọn đời cho công việc cứu độ chúng sinh. Vì thế,
HÙMÏ còn biểu tượng cho cuộc sống cao đẹp.
Lại nữa, do Tâm Bồ Đề là biểu
tượng cho sự phá tan mọi nghiệp ác nên HÙMÏ còn mang nghĩa “Tồi phá”, tức là
đập tan mọi nhân Vô Minh để hiển nghĩa Đại Không cực thiện.
Vì người phát Tâm Bồ Đề là
người nguyện hy sinh Bản Ngã của mình và tận lực thực hiện công hạnh hóa độ
chúng sinh. Chính sự hy sinh này đã tạo thành cái sức mạnh làm cho Ma Vương
(Màra Ràja) và quyến thuộc của nó phải sợ hãi lánh xa. Do đó, HÙMÏ còn mang ý
nghĩa “Khủng bố”, tức là xua đuổi các loài ma ác, quỷ dữ.
Lại nữa, người phát Tâm Bồ Đề
đã hy sinh Bản Ngã nguyện đem lại sự an lạc tốt lành cho tất cả chúng sinh nên
tạo thành năng lực ủng hộ bảo vệ cho họ vượt thoát mọi chướng nạn. Do đó, HÙMÏ
còn mang ý nghĩa là “Hộ vệ khắp cả”.
Từ các ý nghĩa này , nên HÙMÏ
là chủng tự của các vị Trì Kim Cương (Vajra Dhàra), Phẫn Nộ Minh Vương (
Krodha Vidya Ràja ) Phẫn Nộ Thần Vương (Krodha Devatà Ràja), hay HÙMÏ là chủng
tử chung của chư Thiên trong 3 Bộ và HÙMÏ được biểu tượng cho đời sống cao đẹp
của Thánh Nhân.
Tóm lại, OMÏ MANÏI PADME HÙMÏ
có thể được diễn dịch là : “ Khi chân chính thức ngộ được Phật Tính bất diệt
vốn có trong Tâm của mình thì cuộc sống cá nhân mới thực sự có ý nghĩa cao đẹp
nhất”.
Ý tưởng này đã được Kinh Pháp
Hoa (Saddharma Punïdïarika Sùtra) minh họa qua hình ảnh một kẻ nghèo khổ mang
viên ngọc quý trong người mà chẳng biết, lại cứ mải mê chìm đắm trong cuộc sống
đói khát lang thang. Đến lúc gặp một người tốt chỉ cho biết là mình vốn mang
viên ngọc quý thì kẻ kia chợt bừng tỉnh và từ đó người cùng tử ấy bắt đầu thực
hiện một cuộc sống đầy ấm êm và khoái lạc.
———————————-
No comments:
Post a Comment