Monday, February 6, 2017

CHÚ ĐẠI BI



KINH CHÚ ĐẠI BI - ĐẠI BI TÂM ĐÀ LA NI

CHÚ ĐẠI BI - ĐẠI BI TÂM ĐÀ LA NI

I - LỢI ÍCH CHO NGƯỜI TỤNG KINH CHÚ ĐẠI BI

Những ai trong đời nầy, nhất tâm trì tụng Đại bi tâm chú thì sẽ được toại nguyện về 15 loại thiện sanh và trừ được 15 loại ác tử.

A. MƯỜI LĂM LOẠI THIỆN SANH:
1.  Nơi được sanh ra thường gặp năm điều lành.
2.  Thường được sanh ở nước lành (thiện quốc).
3.  Thường gặp thời hay, vận tốt.
4.  Thường gặp được thầy sáng, bạn lành.
5.  Thân các căn đều trọn vẹn, đầy đủ (lục căn hoàn cụ)
6.  Đạo tâm luôn được thuần hậu, chơn chánh.
7.  Không phạm cấm giới.
8.  Tình anh em cốt nhục đều được thuận hòa, an lạc.
9.  Trọn đời cơm áo đầy đủ, nhàn nhã.
10. Luôn luôn được mọi người kính mến, thương giúp.
11. Tài sản, của cải không bao giờ bị cướp đoạt.
12. Cầu gì đều được toại ý. (Sở cầu như ý)
13. Luôn được thiện thần, hộ pháp bảo vệ.
14. Nơi được sinh ra thường được nghe Phật thuyết pháp.
15. Khi nghe được Chánh pháp là hiểu ngay được thâm ý mà trực ngộ lời Phật dạy.

B. MƯỜI LĂM LOẠI VỀ ÁC TỬ:
1.  Không bị chết khốn khổ về đói khát, loạn lạc.
2.  Không bị chết vì giam cầm, đánh đập.
3.  Không  bị chết vì thù oán.
4.  Không bị chết nơi trận địa.
5.  Không bị chết vì thú dữ cắn xé.
6.  Không bị chết vì rắn, rết cắn.
7.  Không bị chết cháy hay chết đuối.
8.  Không bị trúng độc khi ăn uống mà chết.
9.  Không bị các loại trùng độc sát hại.
10. Không bị cuồng loạn hay thất vọng mà chết.
11. Không bị cây cối rơi trúng hoặc sa xuống hầm hố mà chết.
12. Không bị người khác trấn ếm, trù ẻo mà chết.
13. Không bị tà thần, ác quỷ làm hại để chết.
14. Không bị chết vì ác bệnh.
15. Không bị chết oan (tự tử, bất đắc kỳ tử, …).

Vì những điều nêu trên, Chú Đại Bi có thể trừ được tất cả những tai nạn, những khổ nạn và thành tựu được những toại nguyện. Những ai chí thành trì niệm thì được những điều lợi ích như trên và sẽ được xa lánh mọi ưu bi, khổ não cho chính mình và có thể cứu giúp được tha nhân như Đại bi tâm của Bồ tát Quán Thế Âm.

II - SỰ LINH ỨNG CỦA KINH CHÚ ĐẠI BI

Chú Đại Bi ở trong kinh " Thiên thủ thiên nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đà la ni"

Hồi đời quá khứ vô lượng ức kiếp, có Đức Phật Thiên Quang Vương Tịnh Trụ ra đời vì ngài Quán Thế Âm mà nói ra Chú Đại Bi này. Lúc đó ngài mới trụ bực sơ địa, mà sau khi nghe chú này rồi, thì siêu chứng lên bực Bát địa liền, Ngài thấy cái hiệu nghiệm như vậy, thì phát lời đại nguyện rằng: " Nếu qua đời vị lai có thể đem chú này ra mà làm lợi ích cho chúng sanh, thì cho thân Ngài sanh ra ngàn cánh tay và ngàn con mắt v.v... Ngài nguyện vừa rồi thì quả nhiên tay mắt đều cụ túc tất cả,vả lại Chư Phật phóng quang soi đến thân Ngài và soi khắp vô biên thế giới.

Khi ấy Ngài lại phát nguyện nữa rằng: nếu người nào trì tụng Chú này mổi đêm 5 biến, thì đặng tiêu hết những tội nặng sanh tử trong trăm ngàn vạn ức kiếp, đến lúc mạng chung thì có thập phương Chư Phật hiện thân tiếp dẫn về cõi tịnh độ. Bằng chứng như người nào trì tụng chú này mà sau còn đọa vào ba đường ác đạo và chẳng đặng sanh về cõi Phật, hay chẳng đặng những pháp tam muội biện tài, và chỗ sở cầu không toại chí, nếu có mấy sự ấy, thì chú này không được xưng là " Đại Bi tâm đà la ni." .
Chỉ trừ những người tâm không thiện, chí không thành, và lòng hay nghi, thì không thấy hiệu nghiệm được liền mà thôi.

Chú này ví tụng 12.000 lượt hay in cúng 1.200 quyển thời nhất nhất cầu việc gì đều có hiệu nghiệm cả.
Cầu con có con, cầu bệnh khỏi bệnh, cầu tài có tài, cầu phúc được phúc, cầu tai qua nạn khỏi được tai qua nạn khỏi v.v...

III - NGHE TỤNG CHÚ ĐẠI BI .Thầy Thích Trí Thoát


IV - NỘI DUNG KINH CHÚ ĐẠI BI

(Chúng ta đọc hết bài rồi lập lại 5 lần hoặc  7 lần hoặc 21 lần)
Mỗi lần là một biến.

HÌNH ẢNH KINH CHÚ ĐẠI BI
Nam mô đại bi hội thượng Phật Bồ Tát. (3 lần)
Thiên thủ thiên nhãn, vô ngại Đại-bi tâm đà-la-ni.

Nam-mô hắc ra đát na, đá ra dạ da. 

Nam-mô a rị da, bà lô Yết-đế, thước bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da. Ma-ha-tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da. Án tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa. 

Nam-mô tất kiết lật đỏa, y mông a rị da bà lô Yết-đế, thất Phật ra lăng đà bà. 

Nam-mô na ra cẩn trì hê rị, ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà đà, ma phạt đặc đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, câu lô câu lô kiết mông, độ lô độ lô phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà la đà la, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Ma mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê y hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ, bồ đề dạ, bồ đà dạ, bồ đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì, địa rị sắt ni na, ba dạ ma na ta-bà ha, tất đà dạ ta-bà ha. Ma ha tất đà dạ ta-bà ha. Tất đà du nghệ thất bàn ra dạ ta-bà ha. Na ra cẩn trì ta-bà ha. Ma ra na ra ta-bà ha. Tất ra tăng a mục khư da, ta-bà ha. Ta-bà ma ha, a tất đà dạ ta-bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ ta-bà ha. Ba đà ma kiết tất đà dạ ta-bà ha. Na ra cẩn trì bàn dà ra dạ ta-bà ha. Ma bà rị thắng yết ra dạ, ta-bà ha.   Nam-mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam-mô a rị da bà lô Yết-đế thước bàn ra dạ, ta-bà ha.

Án tất điện đô mạn đa ra bạt đà dạ ta-bà ha. (3 lần) 


No comments:

Post a Comment