Wednesday, February 22, 2017

Niệm Phật giải trừ nghiệp chướng

Niệm Phật giải trừ nghiệp chướng

Pháp môn Tịnh độ, một pháp môn hiện bày bốn chữ " Tiện lợi- dễ dàng" một cách rõ rệt. Nếu quý vị không hiểu được những lý luận trong kinh cũng không thành vấn đề, cũng vẫn có thể thành tựu.
Nếu bảo không cần hiểu nghĩa lý trong kinh chỉ một lòng thành tâm niệm Phật mà có thể thành tựu, vậy thì tôi vẫn phải giảng kinh thuyết pháp nữa để làm gì? Sở dĩ tôi vẫn phải mỗi ngày thuyết giảng không ngừng, đem những lời hay ý đẹp của đức Thế Tôn ra nói là mong quý vị hiểu, mong quý vị giác ngộ. Bởi quý vị đây không đủ phước báu suốt ngày vọng tưởng, suy nghĩ lung tung. Vậy thì ai là người có đủ phước báu? Là những người thật thà, chất phác, suốt ngày chỉ ôm giữ một câu A Di Đà Phật, việc gì cũng không nghĩ tưởng. Do đó, công phu niệm Phật của quý vị khi đã đến mức không còn mảy may vọng niệm, chỉ còn một câu A Di Đà Phật, thì lúc đó Tam tạng mười hai bộ Kinh điển, mà Thế Tôn suốt 49 năm thuyết pháp đều là dư thừa. Quý vị cũng không cần đến nghe tôi giảng giải nữa.
Cho nên Phật độ chúng sanh, có hai hạng người dễ độ nhất.
Một là những người thượng căn lợi trí, vừa nghe qua liền thông đạt, liễu ngộ, dứt sạch vọng niệm.
Hai là những người thật thà ngu dốt, họ không cần tìm hiểu nhiều, bảo họ niệm Phật là họ cứ ngoan ngoãn, thật tình chấp trì, không nghỉ tưởng điều gì ngoài niệm Phật. Thứ ba là những người lưng chừng thích " khiên vác" ôm đồm, tìm hiểu suy nghĩ lung tung. Quý vị biết không, chúng ta thuộc loại người thứ ba này đó, loại người nhiều rắc rối. Cho nên đức Thế Tôn suốt 49 năm khó nhọc, mỗi ngày không ngừng nói pháp cũng vì những người nhiều rắc rối như chúng ta. Ngài phải đem pháp ly ác giảng nói tỉ mỉ ra cho chúng ta.
Mong rằng sau khi quý vị đã hiểu rõ rồi thì phải biết buông xả, không có vọng niệm là người có đại phước báu, tuyệt đối không phải có nhiều tiền tài, có địa vị cao, người có địa vị, tiền tài tuy được hưởng thụ đời sống vật chất, hưởng độ vài ba năm, sau khi chết rồi sẽ ra sao? Tam đồ, lục đạo phải chịu luân hồi, như thế có phải là phước đâu? Nếu tâm không chút vọng tưởng, suốt ngày chỉ câu A Di Đà Phật, người này chỉ vài năm sau là đã thành Phật được rồi. Hiểu được như thế, quý vị mới biết công đức niệm Phật thật vô cùng thù thắng, không gì sánh bằng. Đức Thế Tôn sở dĩ phải bày ra phương tiện nói ba thừa, chỉ vì muốn dẫn độ chúng sanh mà thôi. Mục đích duy nhất của Ngài là mong chúng ta một đời có thể thành Phật.
Có người hoài nghi rằng:" tôi rất ngu si, chậm hiểu, nghiệp chướng lại sâu dày, có thể thành Phật được không?" Trong Kinh điển Phật thường nói:" chỉ cần một câu danh hiệu Phật, có thể tiêu trừ 80 ức kiếp sanh tử tội nặng" quý vị thử nghĩ xem, suốt ngày một đêm ở Niệm Phật đường, quý vị đã niệm được rất nhiều tiếng. Vậy thì tính xem, tội chướng của quý vị đã tiêu trừ bao nhiêu rồi. Điều này chắc thật không sai, vì lời Phật nói không hề hư dối, chắn chắn có hiệu quả tốt, không thể nghĩ bàn.
Thế nhưng, vì sao nhiều người niệm Phật suốt ngày đêm mà nghiệp chướng vẫn còn đầy? Bởi vì nghiệp chướng của người này quá nhiều. Do đó công đức niệm Phật của một ngày đêm dù là giúp họ tiêu trừ đi rất nhiều mà vẫn chưa dứt sạch. Cho nên cần phải mỗi ngày đến niệm Phật, mỗi ngày giảm bớt thêm nghiệp chướng.
Phật dạy chúng ta rằng: năng lực quan trọng nhất để giải trừ nghiệp chướng trong lúc niệm Phật là không hoài nghi, không xen tạp, không gián đoạn. Với ba yếu tố này năng lực của không xen tạp mạnh nhất, nếu quý vị giữ được liên tục không gián đoạn trong ba năm, cho dù nghiệp chướng sâu dày bao nhiêu của vô lượng kiếp đều có thể giải trừ hết. Làm sao để biết được không còn nghiệp chướng? Hãy nhìn lúc quý vị vãng sanh, có thể ra đi bằng cách ngồi hoặc đứng rất tự tại. Sau khi sanh về cõi Tây Phương Cực Lạc, không phải trụ ở cảnh giới phàm thánh đồng cư, cũng không phải trụ ở Tứ độ Vãng sanh mà dự vào hàng Thượng Phẩm vãng sanh.
Câu danh hiệu Phật giải trừ nghiệp chướng thật là bất khả tư nghì. Cho nên Ngài Từ Vân Quán Đảnh Pháp Sư trong lời chú giải của bộ Kinh Vô Lượng Thọ nói:" Chúng sanh nào từ vô lượng kiếp tạo tội, tạo nghiệp cực ác, cực sâu dày. Bao nhiêu Kinh luận, tất cả các sám pháp đều không thể sám trừ được". Cuối cùng vẫn còn một phương pháp có thể cứu vãn, đó là phương pháp niệm Phật. Cho thấy công đức niệm Phật thật là to lớn, thù thắng vô cùng.
Hòa Thượng Tịnh Không thuyết giảng cho Phật tử dự Phật thất trong Niệm Phật Đường.

Cách Giải Trừ Oán Thù

Cách Giải Trừ Oán Thù Của Oan Gia Trái Chủ

 
Chúng ta đời đời kiếp kiếp học Phật tu hành không được thành tựu, không có biện pháp thoát khỏi luân hồi, là vì có oan gia trái chủ đến gây phiền phức, làm ma chướng. Người không học phật, không biết hóa giải oán thù, vì vậy oan oan tương báo khổ không kham nổi. Người học Phật, đối với tất cả chúng sanh bất luận họ đến đòi nợ hoặc trả nợ đều khuyên họ niệm Phật, như vậy có thể chuyển tất cả thiện ác, oán thành pháp duyên, nhân tình thế gian cũng có thể chuyển thành pháp quyến thuộc tu hành mới được thành tựu.
Mọi người đều có nghiệp chướng, nếu không có nghiệp chướng sẽ không phải sanh đến thế gian này. Làm sao để tiêu trừ nghiệp chướng? Cổ đức khai thị rằng phương pháp tốt nhất là niệm A Di Đà Phật.
Để giúp các vị cư sĩ trong quá trình tu hành không bị chướng ngại, như lý như pháp, tiêu trừ nghiệp lực, cùng hội một thuyền, thuận qua bờ giác, dưới đây, tôi xin giới thiệu phương pháp tiêu trừ nghiệp lực của Trịnh Hạ Tường sư phụ như sau:
1. Đầu Tiên Khuyên Dạy Cách Giải Trừ Oán Thù.
Tôi tên (xxxxx), Những oan gia trái chủ trên mình tôi (tức nghiệp lực, của một bộ phận nào trên thân thể) xin quý vị hãy nghe rõ, từ vô thủy kiếp đến nay, vì tôi bị mê hoặc trong thế giới Ta Bà, trong nhiều kiếp luân hồi, trong lúc vô ý đã làm tổn hại đến quý vị, khiến cho quý vị phải thọ vô lượng tội nghiệp trong lục đạo luân hồi, hứng chịu biết bao đau khổ, tăng thêm biết bao phiền não, tôi thường cảm thấy tội chướng sâu nặng hối hận vô cùng. Tất cả đều do tôi mê hoặc vô tri tạo nên, đời này nhờ nguyện lực từ bi gia hộ của Phật tôi được kết pháp duyên với Phật, tôi không quên quý vị, thành khẩn hy vọng quý vị cùng nhau học phật, niệm Phật tu hành, tranh thủ sớm ngày tu hành chánh quả. Đồng thời hy vọng quý vị tha thứ cho tôi, đừng trả thù tôi, nếu quý vị nhất định muốn báo thù tôi, tôi cũng không có cách nào lẩn tránh, vì nhân đó là do tôi tạo ra, nên cũng phải chấp nhận quả báo, nhưng nếu như vậy đối với quý vị cũng không có lợi ích gì, chỉ khiến quý vị cảm thấy khoái lạc nhất thời, nhưng đến cùng quý vị không giải quyết được vấn đề căn bản, vì quý vị không những không tránh được sanh tử, cùng thoát ra khỏi lục đạo luân hồi. Tôi nhận thấy cách này vừa tổn người lại không lợi ích gì cho chính mình, đối với hai bên chúng ta đều không tốt lành, vì vậy tôi thành khẩn hy vọng quý vị cùng tôi học Phật, niệm Phật hiệu A Di Đà Phật, xin ghi nhớ chỉ cần quý vị thâu lại thân tâm niệm Thánh Hiệu A Di Đà Phật, một niệm tương ứng hoành siêu tam giới, siêu thoát tam giới tức được đắc đạo, chỉ cần tinh tấn tu hành sẽ được thành Phật. Chỉ cần thâu lại thân tâm niệm Thánh Hiệu A Di Đà Phật, một niệm tương ứng phước thọ tăng trưởng, tiêu tai diệt chướng, chỉ cần thâu lại thân tâm niệm Thánh Hiệu A Di Đà Phật, một niệm tương ứng, tu gì được nấy. Nhưng chúng tôi hy vọng quý vị đừng tu nhân thiên quả báo, cố gắng tu tập, phát tâm Bồ Đề, nhất tâm chuyên niệm A Di Đà Phật thánh hiệu, chỉ cần tu hành đúng pháp, tất nhiên đắc đạo tu hành chánh quả.
2. Quy Y Tam Bảo Cho Oan Gia Trái Chủ
Tôi tên (xxxxx), oan gia trái chủ trên thân tôi (tức nghiệp lực) quý vị hãy nghe rõ, quý vị không nghe Tam Bảo không hiểu Quy Y, cho nên thọ khổ luân hồi. Nay tôi truyền thọ Quy Y Tam Bảo, quý vị phải lắng nghe, tôi niệm một lần, quý vị hãy theo tôi niệm một lần (phải niệm ba lần)
Quy Y Phật
Quy Y Pháp
Quy Y Tăng.
Quy Y Phật, Lưỡng Túc Tôn,
Quy Y Pháp, Ly Dục Tôn
Quy Y Tăng, Chúng Trung Tôn.
Quy Y Phật, Không Đọa Địa Ngục,
Quy Y Pháp, Không Đọa Ngạ Quỷ,
Quy Y Tăng, Không Đọa Súc Sanh
(niệm 3 lần)
Lễ Quy Y viên mãn, bây giờ tôi vì quý vị niệm Thánh hiệu A Di Đà Phật hai ngàn tiếng. Xin mời quý vị thâu lại thân tâm cùng tôi chuyên tâm trì niệm thánh hiệu A Di Đà Phật.
(niệm Phật 4 chữ hoặc 6 chữ tùy ý)
3. Niệm Xong Thánh Hiệu, Vì Oan Gia Trái Chủ, Tụng Tâm Kinh Một Lần.
BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH
Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát nhã Ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.
Xá Lợi Tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị.
Xá Lợi Tử! Thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức. Vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý, vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới. Vô vô minh, diệc vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận. Vô khổ, tập, diệt, đạo. Vô trí, diệc vô đắc.
Dĩ vô sở đắc cố, Bồ đề tát đỏa y Bát nhã Ba la mật đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng cứu cánh Niết Bàn. Tam thế chư Phật, y Bát nhã Ba la mật đa cố, đắc A nậu đa la Tam miệu Tam bồ đề.
Cố tri Bát nhã Ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chân thật bất hư.
Cố thuyết Bát nhã Ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết:
Yết đế, yết đế, Ba la yết đế, Ba la tăng yết đế, Bồ đề tát bà ha (3 lần)
4. Tụng Xong Tâm Kinh, vì oan gia trái chủ, tụng Chú Vãng Sanh 21 lần.
Chú Vãng Sanh
Nam mô a di đa bà dạ
Đa tha dà đa dạ
Đa địa dạ tha.
A di rị đô bà tỳ
A di rị đa, tất đam bà tỳ
A di rị đa tì ca lan đế
A di rị đa tì ca lan đa
Dà di nị dà dà na
Chỉ đa ca lệ ta bà ha.
Kệ Hồi Hướng
Nguyện đêm công đức này,
Trang nghiêm Phật Tịnh Độ,
Trên đền bốn ơn nặng,
Dưới cứu khổ tam đồ,
Nếu có ai thấy nghe,
Đều phát tâm Bồ Đề,
Hết một báo thân này,
Đồng sanh cõi Cực Lạc
5. Lời Kết Thúc:
Tất cả oan gia trái chủ trên thân tôi, lúc nãy tôi vừa quy y Tam Bảo cho quý vị, tụng niệm Phật hiệu A Di Đà Phật hai ngàn tiếng, tụng Tâm Kinh một lần, tụng chú vãng sanh 21 lần. Những pháp ngữ này đều tặng cho quý vị, hy vọng quý vị đừng làm chướng ngại cho tôi, mau rời khỏi thân tôi, tìm một chỗ tốt lành mà tu hành, phá mê khai ngộ, minh tâm kiến tánh, lìa khổ được vui, vãng sanh Tây Phương Cực Lạc Thế Giới.
Nam Mô A Di Đà Phật (3 lần)
Chú Giải:
  1. Nhất tâm chuyên niệm vạn đức hồng danh A Di Đà Phật, có thể tiêu tai chướng, phá mê khai ngộ, thuận đạt bờ giác.
  2. Khi nghiệp lực hiện tiền, tu hành tinh tấn, nhức đầu, đau chân hoặc các bộ phận khác trên thân thể không khỏe, có thể dùng phương pháp này.
  3. Trong lúc tu hành gặp chướng ngại, dùng phương pháp này, đừng dùng những văn hồi hướng khác, nên tụng chú vãng sanh siêu độ cho họ vãng sanh, tức là hồi hướng cho họ rồi, phương pháp này linh nghiệm, xin quý vị đồng tu chứng nghiệm.
  4.  

KINH GIẢI OÁN KẾT TRONG MỘT TRĂM ĐỜI



Gia Hưng Đi Tạng Kinh_ Tập 19_ No.B044

KINH PHẬT I ĐÀ LA NI GII N KẾT TRONG MỘT TRĂM ĐI
(Trích trong CHƯ KINH NHT TNG TP YU)

Hán dịch: Không tên người dch
Việt dch: HUYN THANH

Nghe n vy. Một thời Đc Phật ngự dưi cây Âm Nhc, tại thành Tỳ Gia Ly
cùng vi tám ngàn chúng T Khưu đến dự.
Thời một vị Bồ Tát tên Phổ Quang Bồ Tát Ma Ha Tát (Samanta-prabha- bodhisatva-mahāsatva) mà mọi người đã hay biết, nói Nhân Duyên xưa kia.

_ Vào thi Mạt Pháp trong đời vị lai, chúng sinh đáp trả nhiều tội khổ, kết oán thù xong, đi đời đều phải gặp gỡ nhau
Nếu kẻ trai lành, ngưi nữ thiện nghe Đà La Ni này, bảy ngày bảy đêm, khiết tịnh Trai Gii, ngày ngày vào lúc sáng sm, niệm danh hiệu của Ph Quang B Tát Ma Ha Tát này với niệm Đà La Ni này 108 biến, trọn đ bảy ngày thì đưc tiêu diệt hết, chẳng cùng hội ngộ vi Oan Gia.
Khi Đức Phật nói lời này thời bốn Chúng, con ngưi, tám bộ Trời Rồng thảy đều vui v thọ nhận s dạy bo rồi phụng hành.

_Án, X m. Kim tra, kim tra, ng kim tra. Nay Ta ngươi gii kim tra, rốt ráo chng cùng ngươi kết kim tra.
Án, cưng trung cưng, cát trung cát, ba la hi lý hữu thù li. Tất cả Oan
Gia lìa thân Ta
Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật

KINH PHT NÓI ĐÀ LA NI GII OÁN KT TRONG MT TRĂM ĐI

Monday, February 20, 2017

Quan âm bồ tát giáng nhân gian

Quan âm bồ tát giáng nhân gian
Phả tế quần sinh vạn sứ toàn
Dương liễu chi đầu thùy pháp lực
Cam lồ tịnh thủy ứng linh đan
Tam thiên môn hạ tiêu trần cấu
Vạn ức âm hồn thoát nghiệp oan
Khả bảo âm dương quân lợi lạc
Phúc đồng nhân chúng phúc ban ban
Bể nam hải sen vàng đua nở
Núi hương sơn sực nức tiên nhang
Đức quan âm phóng đại tường quang
Đại từ bi năng cứu khổ nạn.
Quan âm đại sỹ, tích hiệu viên thông, mười hai đại nguyện hệ hoằng thâm, khổ hải độ mê tâm.
Na mô thiên thủ thiên nhãn, đại từ đại bi, cứu khổ độ nạn, linh cảm Quán Thế Âm Bồ Tát!!!!
(tôi hay quán tưởng danh hiệu này và tôi thấy thật kỳ diệu…hãy thử đi!!

Lược sử Đức Quán Thế Âm Bồ Tát:

Lược sử Đức Quán Thế Âm Bồ Tát:
Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, khi chưa xuất gia tu hành, có một kiếp Ngài làm con đầu long của vua Vô Tránh Niệm , tên là Bất Huyến Thái Tử.
Trong thời kỳ vua ấy thống trị thiên hạ, thì có Phật Bảo Tạng ra đời.
Vua thấy nhân tâm xu hướng theo lời giáo hóa của Phật càng ngày càng đông bèn suy nghĩ rằng: “ Nếu đạo Phật không phải chân chánh, thì đâu có lẽ người ta sung bái khắp xứ như vậy!”
Nên vua mới phát tâm sắm đủ lễ vật đến cúng dường Phật và chúng tăng trong ba tháng, và lại khuyên các vị vương tử và đại thần cũng làm như vậy.
Khi ấy Bất Huyến Thái Tử vâng lời phụ vương, hết long tin kính, sắm đủ các món ngon quí và đem những đồ trân trọng của mình mà dâng cúng cho Phật và đại chúng trong ba tháng, không trễ nải bữa nào và cũng không món gì kém thiếu.
Quan Đại thần Bảo Hải, là phụ than của Phật Bảo Tạng, thấy vậy khuyên rằng : “Điện hạ đã sẵn long tu phước mà cúng Phật cúng Tăng: vậy xin Điện hạ hãy đem công đức đó mà hồi hướng về đạo vô thượng Bồ đề, chớ nên cầu sự phước báo trên cõi trời Đao lợi hay là cõi trời Phạm thiên làm chi.
Bởi vì mấy cõi ấy, tuy là cảnh vật vui tốt, nhân dân sung sướng, căn than đẹp đẻ . thọ mạng lâu dài, đặng phép thần thong, dạo đi tự tại, những đồ y thực sẵn có , các cuộc du hí đủ bày, trăm thức tự nhiên thọ dụng đủ đều khoái lạc, không có sự khổ như cõi Nhân gian.
Cái phước báo như trong các cõi đó tuy là mỹ mãn như thế, nhưng còn thuộc về hữu lậu, có hư có mất, chắc chắn gì đâu, chính là sự vô thươờg, thật là tướng vô định, như cơn gió thỗi mau không có thế lực gì cầm lại đặng: hết vui thì xảy ra buồn , hết sướng thì trở lại khổ, dầu có sống lâu đến mấy ngàn năm đi nữa, cũng không khỏi con ma sanh tử lôi kéo vào đường nọ ngõ kia.
Nếu Điện hạ cứ cầu phước báo đó, chắc không thoát khỏi ải sanh tử luân hồi, thì chưa chắc lúc nào đặng tiêu diêu tự tại.
Chi bằng Điện hạ đem công đức đó mà cầu món phước báo vô lậu, không hư không mất, đời đời kiếp kiếp, vượt ra ngoài ba cõi bốn dòng hưởng sự an vui vô cùng vô tận, và hồi hướng về đạo Bồ đề mà cầu mau thành Phật quả, đặng cứu độ chúng sanh khỏi song mê biển khổ. Vậy phần tự lợi đã vuông tròn, mà đức lợi tha lại đầy đủ nữa“.
Bất Huyến Thái Tử nghe ông Bảo Hải khuyên nói như vậy, bèn đáp rằng : “Ta xem xét cả thảy chúng sanh trong đường Địa ngục chịu sự khổ cực : còn kẻ nhân gian và người thiên thượng thì đủ đều cấu nhiễm, lắm chuyện trần lao, không có chút nào đặng thanh tịnh; bởi đó mà tạo thành tội nghiệp, nên mới thọ quả báo mà đọa vào ba đường dữ là : Địa ngục, Ngạ quỉ và Súc sanh”.
Bất Huyến Thái Tử đáp lại rồi tự nghĩ rằng : “ Bởi chúng sanh ở trong đời không gặp đặng những người hiền nhân quân tử, khuyên việc lánh dữ làm lành mà dìu dắt lên con đường giải thoát, chỉ gạp những kẻ tàn ác tiể nhân cũ dụ nhau kết bạn bè thường xúi giục những điều bất thiện, và lại phá hư chánh pháp, khinh pháp Đại thừa, làm cho mất cả căn lành, thêm điều tà kiến ; vì vậy mới che lấp tâm tánh, không biết đạo đức là gì, nên phải chịu nỗi đày đọa “.
Bất Huyến Thái Tử ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi thưa rằng : “ Nay tôi đối trước mặt Phật và đại chúng mà tỏ lời như vầy : Tôi nguyện đem tất cả các món công đức tôi đã từng cúng dường Tam Bảo và các món công đức tôi đã từng tu tập pháp mầu mà hồi hướng về đạo Bô thượng Bồ đề .
Tôi nguyện trong khi tôi tu những điều công hạnh Bồ Tát, làm những việc lợi ích cho chúng sanh, nếu tôi xem có kẻ mắc sự khốn khổ hiểm nghèo ở trong hoàn cảnh ám muội, không biết cậy nhờ ai, không biết nương dựa đâu, mà có xưng niệm danh hiệi tôi, tức thì tôi dùng phép Thiên nhĩ mà long nghe và dùng phép Thiên nhãn mà quan sát coi kẻ mắc nạn ấy ở chỗ nào, cầu khẩn việc gì, đặng tôi hiện đến mà cứu độ cho khỏi khổ mà đặng vui . Nếu chẳng đặng như lời thề đó, thì tôi không thành Phật .
Thưa Đức Thế Tô ! Nay tôi vì hết thảy chúng sanh mà phát long đại nguyện , tu học về pháp xuất thế, lo làm các công hạnh tự giác tự lợi, nguyên khi phụ vương tôi Vô Tránh Niệm, trải hằng sa kiếp nhẫn sau thành Phật, hiệu là A Di Đà Như Lai ở cõi An Lạc, Thế giới, hóa độ chúng sanh xong rồi, chứng nhập Niết bàn , chánh pháp truyền lại, thì tôi tu hạnh làm việc Phật sự . Đến lúc chánh pháp gần diệt, hễ diệt bữa trước thì bữa sau tôi chứng đạo Bồ đề .
Xin đức Thế Tôn từ bi mà thọ ký cho tôi , và tôi cũng hết long yêu cầu các đức Phật hiện tại ỡ hằng sa thế giới trong mười phương điều thọ ký cho tôi như vậy nữa ?
Đức Bảo Tạng như lai nghe mấy lời nguyện ấy , liền thọ ký Bất Huyến Thái Tử rằng : “ Ngươi xem xét chúng sanh trong cỏi Thiên thượng Nhân gian và trong ba đường dữ đều mắc những sự tội báo , mà sanh long đại bi, muốn đoạn trừ mọi sự khổ cực, dứt bỏ những điều phiền não và làm cho cả thảy đều đặng hưởng sự an vui .
Vì người có lòng soi xét những lời yêu cầu của loài hữu tình trong thế gian mà cứu khổ như vậy , nên nay ta đặt hiệu là : Quán Thế Âm .
Trong khi ngươi tu hạnh Bồ tát , thì giáo hóa cả vô lượng chúng sanh cho thoát khỏi sự khổ não và là đủ mọi việc Phật sự .
Sau khi A Di Đà Như Lai nhập Niết bàn rồi , thì cõi Cực lạc lại đổi tên là “Nhất thiết trân bảo sở thành tựu”. Y báo càng them tốt đẹp hơn trước đến bội phần .
Chừng đó, đương lúc ban đêm , độ trong giây phút , có hiện ra đủ thức trang nghiêm, thì ngươi sẽ ngồi trên tòa Kim cang ở dưới cây Bồ đề mà chứng ngôi Chánh giác hiệu là ; “Biến Xuất Nhất Thiết Quang Minh Công Đức Sang Vương Như Lai: , phước tròn hạnh đủ , muôn sự vẻ vang , đạo pháp cao siêu , thần thong rộng lớn , rất tôn rất quí , không ai sánh bằng mà lại sống lâu đến chin mươi sáu ức na do tha kiếp , rồi khi diệt độ thì chánh pháp còn truyền bá lại đến sáu mươi ba ức kiếp nữa .
Bất Huyến Thái Tử nghe Phật Bảo Tạng thọ ký rồi , liền vui mừng mà thưa rằng: “Bạch Đức Thế Tôn ! Nếu sự thề nguyện của tôi quả đặng hoàn mãn như lời ngài nói đó , thiệt l àhân hạnh biết bao ! Nay tôi lạy ngài xin làm thế nào cho các đức Phật hiện ở hằng sa thế giớicũng đều thọ ký cho tôi và khiến cho cả thảy thế giới đều đồng thời vang ra những tiếng ấy đều đặng thân tâm thanh tịnh mà xa lìa mọi sự dục vọng trên đời “.
Lúc Bất Huyến Thái Tử thưa rồi , đương cúi đầu lễ Phật , tức thì các thế giới tự nhiên rung động vang rền, kêu ra những tiếng hòa nhã , ai ai nghe đến cũng sanh long vui vẻ , làm cho các điều dục vọng bỗng nhiên tiêu tan cả .
Khi ấy , thoạt nghe các Đức Phật ở mười phương đồng thinh thọ ký cho Quan Thế Âm rằng: “Đương khi thời kiếp Thiện trụ , ở tại cõi Tán đề lam thế giới , nhằm lúc Phật Bảo Tạng ra đời mà giáo hóa chúng sanh , có con của vua Vô Tránh Niệm , tên là Bất Huyến Thái Tử phát tâm cúng dường Phật và đại chúng trong ba tháng: do công đức đó , nên trải hằng sa kiếp sẽ thành Phật hiệu là : Biết Xuất Nhất Thiết Công đức Quang Minh San Vương Như Lai , ở về thế giới Nhất Thiết Trân Bảo Sở Thành Tựu”.
Bất Huyến Thái Tử khi đặng Chư Phật thọ ký rồi , thì long rất vui mừng.
-Đến khi mạng chung, thì Ngài thọ sanh ra các đời khác , trải kiếp nọ qua kiếp kia, hằng giữ bổn nguyện , gắng công tu hành, cầu đạo Bồ đề , làm hạnh Bồ Tát , chăm lòng thi hành những sự lợi ích cho chúng sanh , không có khi nào mà Ngài quên cái niệm đại bi đại nguyện .
Hiện nay Quan Thế Âm đã chứng được bự Đẳng giác Bồ Tát , ở cõi Cực Lạc mà hầu hạ Đức A Di Đà , hằng ngày tiếp dẫn chúng sanh trong mười phương đem về cõi ấỵ
Đến sau , Đức Phật A Di Đà nhập Niết bàn rồi thì Ngài kế ngôi Phật vị mà giáo hoá chúng sanh.
Nam Mô Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát

12 đại nguyện của Quán Thế Âm Bồ Tát

12 đại nguyện của Quán Thế Âm Bồ Tát

1. Nam Mô hiệu Viên-Thông, danh Tự Tại, Quan-Âm Như Lai quảng-phát hoằng thệ nguyện. (Lạy) Được xưng tặng là hiểu biết đầy đủ thông dong hoàn toàn, Ngài đem pháp tu hành mà khuyên độ khắp cùng.
Nguyện Thứ Nhất:
Khi thành Bồ Tát  Danh hiệu tôi: Tự Tại Quán Âm Mười hai lời nguyện cao thâm “Nghe tiếng cứu khổ” Quán Âm thề nguyền.
2. Nam-mô vô quái ngại, Quan-Âm Như Lai thường cư Nam Hải nguyện. (Lạy)  Ở trong một niệm tâm được tự tại vô ngại, Ngài nguyện thường ở biển phương Nam (Nam Hải)để cứu độ chúng sanh.
Nguyện Thứ Hai:
Không nài gian khổ Quyết một lòng cứu độ chúng sanh Luôn luôn thị hiện biển đông Vớt người chìm đắm, khi dông gió nhiều.
3. Nam-mô trú Ta-Bà U-Minh giới Quan Âm Như-Lai tầm thanh cứu khổ Nguyện. (Lạy) Luôn ở cõi Ta Bà và cõi U-Minh, Ngài cứu độ kẻ nào kêu cầu tới Ngài
Nguyện Thứ Ba:
Ta Bà ứng hiện Chốn U Minh nhiều chuyện khổ đau Oan oan tương báo hại nhau Nghe tiếng than thở, mau mau cứu liền.
4. Nam-mô hàng tà ma, trừ yêu quái Quan Âm Như-Lai năng trừ nguy hiểm nguyện. (Lạy) Trừ khử loài tà ma, yêu quái, Ngài có đủ sức cứu người gặp nguy hiểm.
Nguyện Thứ Tư:
Hay trừ yêu quái Bao nhiêu loài ma quỉ gớm ghê Độ cho chúng hết u mê Dứt trừ nguy hiểm, không hề nhiễu nhương.
5. Nam-mô thanh tịnh bình thùy dương liễu, Quan Âm Như-Lai cam-lộ sái tâm nguyện. (Lạy) Ngài nhành dương liễu dịu dàng nhúng vào nước ngọt mát trong cái bình thanh tịnh để rưới tắt lửa lòng của chúng sanh.
Nguyện Thứ Năm:
Tay cầm Dương Liễu Nước cam lồ rưới mát nhân thiên Chúng sanh điên đảo, đảo điên An vui mát mẻ, ưu phiền tiêu tan.
6. Nam-mô Đại-Từ bi năng hỉ xả, Quan Âm Như-Lai thường hành bình đẳng nguyện. (Lạy) Thương xót người đói và sẵng lòng tha thứ, Ngài không phân biệt kẻ oán người thân, tất cả đều coi như nhau.
Nguyện Thứ Sáu:
Thường hành bình đẳng Lòng từ bi thương xót chúng sanh Hỷ xả tất cả lỗi lầm  Thường hành bình đẳng, chúng sanh mọi loài.
7. Nam-mô trú dạ tuần vô tổn hoại, Quan Âm Như-Lai thệ diệt tam đồ nguyện.(Lạy)  Đêm ngày đi khắp đó đây để cứu giúp chúng sanh ra khỏi các sự tổn hại, Ngài nguyện cứu vớt chúng sanh ra khỏi ba đường ác: địa ngục, ngạ quỷ, và súc sanh.
Nguyện Thứ Bảy:
Dứt ba đường dữ Chốn ngục hình, ngạ quỉ, súc sanh Cọp beo . . ., thú dữ vây quanh Quán Âm thị hiện, chúng sanh thoát nàn.
8. Nam-mô vọng Nam nham cầu lễ bái, Quan Âm Như-Lai, già tỏa giải thoát nguyện. (Lạy) Nếu ai quay về núi hướng nam mà hết lòng cầu nguyện thì dầu có bị gông cùm xiềng xích cũng được thoát khỏi
Nguyện Thứ Tám:
Giải thoát còng la Nếu tội nhân sắp bị khảo tra Thành tâm lễ bái thiết tha Quán Âm phò hộ, thoát ra nhẹ nhàng.
9. Nam-mô tạo pháp-thuyền du khổ hải, Quan Âm Như-Lai độ tận chúng sanh nguyện. (Lạy)  Dùng phép tu hành để làm chiếc thuyền, Ngài đi cùng trong biển khổ để độ hết chúng sanh.
Nguyện Thứ Chín:
Cứu vớt hàm linh Trên con thuyền Bát Nhã lênh đênh Bốn bề biển khổ chông chênh Quán Âm độ hết, đưa lên Niết Bàn.
10. Nam-mô tiền tràng phan, hậu bảo cái, Quan Âm Như-Lai tiếp dẫn Tây Phương nguyện. (Lạy)  Nếu ai cầu nguyện và tu hành theo Ngài chỉ dẫn, khi rời bỏ xác thân này thì sẽ có phướng dài đi trước, tàng lọng quý giá theo sau, để rước về Tây Phương.
Nguyện Thứ Mười:
Tây Phương tiếp dẫn Tràng hoa thơm, kỹ nhạc, lộng tàn Tràng phan, bảo cái trang hoàng Quán Âm tiếp dẫn, đưa đàng về Tây.
11. Nam-mô Vô Lượng Thọ Phật cảnh giới, Quan Âm Như-Lai Di Đà thọ ký nguyện. (Lạy)  Ở giới của Đức Vô Lượng Thọ (tức Phật A Di Đà), Ngài đã được cho biết trước là về sau Ngài sẽ thay thế Đức Phật A Di Đà ở ngôi vị đó.
Nguyện Thứ Mười Một:
Di Đà thọ ký Cảnh Tây Phương, tuổi thọ khôn lường Chúng sanh muốn sống miên trường Quán Âm nhớ niệm, Tây Phương mau về.
12. Nam-mô đoan nghiêm thân vô tỉ trại, Quan Âm Như-Lai quả tu thập nhị nguyện. (Lạy)  Được thân hình nghiêm trang không ai so sánh được với Ngài, ấy là kết quả của sự tu theo mười hai lời nguyện lớn ấỵ.
Nguyện Thứ Mười Hai:
Tu hành tin tấn Dù thân nầy tan nát cũng đành Thành tâm nghiêm chỉnh thực hành Mười hai câu nguyện độ sanh đời đời.

BẠCH Y QUÁN ÂM ĐẠI SĨ LINH CẢM THẦN CHÚ



BẠCH Y QUÁN ÂM ĐẠI SĨ LINH CẢM THẦN CHÚ
(QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT TÙY CẦU THẦN CHÚ)
HUYỀN THANH
* * *
Tịnh Khẩu Nghiệp Chân Ngôn:
OM – TU RÊ, TURÊ,MAHA TU RÊ, TU TU RÊ, SỜ-VA HA ( 21 Lần )
Tịnh Thân Nghiệp Chân Ngôn:
OM- TU TA RÊ, TU TA RÊ, TU MA RÊ, SỜ-VA HA ( 21 Lần )
Tịnh Ý Nghiệp Chân Ngôn:
OM- VẮC RA, TỜ-RẠT, HA HA HỘC ( 21 Lần )
Tự Tính Chân Ngôn:
Tự Tính của con vốn thanh tịnh
Như Tự Tính thanh tịnh của các Pháp.
OM- SỜ-VA PHA VA SÚT ĐA, SẠC VA ĐẠC MA SỜ-VA PHA VA SÚT ĐA, U HĂM (21 Lần)
An Thổ Địa Chân Ngôn:
NA MẮC SA MĂN TÁ BÚT ĐA NĂM,OM- ĐU RU ĐU RU ĐÊ VI, SỜ-VA HA (21 Lần)
Bạch Y Quán Âm Đại Sĩ Linh Cảm Thần Chú:
Nam mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quảng Đại Linh Cảm Bạch Y Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát (3 Lần, 3 Lạy)
NA MÔ BÚT ĐA GIA
NA MÔ ĐẠC MA GIA
NA MÔ SĂNG GA GIA
NA MẮC A RI GIA, A VA LÔ KI TÊ SỜ-VA RA GIA, BÔ ĐI SÁT TOA GIA, MA HA SÁT TOA GIA, MA HA CA RU NI CA GIA
TÁT ĐI-GIA THA: OM- DA LA VA ĐA, DA LA VA ĐA, DA HĂM VA ĐA, RA DA VA ĐA, RA DA VA ĐA – SỜ-VA HA
Thiên La Thần, Địa La Thần. Người lìa nạn, nạn lìa thân. Tất cả tai ương hóa bụi trần
(Trì Tụng Bài Chú trên 108, 1080 lần)
Ý Nghĩa của Chú Linh Cảm là:
NAMO BUDDHÀYA (Quy y Phật)
NAMO DHARMÀYA (Quy y Pháp)
NAMO SANGHÀYA (Quy y Tăng)
NAMAH ÀRYA AVALOKITE’SVARÀYA BODHISATVÀYA MAHÀSATVÀYA MAHÀ KARUNIKÀYA
(Quy mệnh Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát là bậc có đầy đủ Tâm Đại Bi)
TADYATHÀ (Tuyên nói Thần Chú là)
OM (Ba Thân Quy Mệnh)
JALA VÀDA (Tính chất Trì Độn chậm chạp kém phước)
JALA VÀDA (Tình chất Trì Độn Chập Chạp kém phước)
JAHAM (Tính chất Vô Nhiễm thanh tịnh của hoa sen)
RÀJA VÀDA (Tính chất lanh lợi thông tuệ uy thế của vua chúa)
RÀJA VÀDA (Tính chất lanh lợi thông tuệ uy thế của vua chúa)
SVÀHÀ (Thành tựu tốt lành)
Toàn bài có thể diễn dịch là:
Quy Y Phật
Quy Y Pháp
Quy Y Tăng
Quy Mệnh bậc có đầy đủ Tâm Đại Bi là Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát
Như vậy: OM! Căn tính trì độn kém cỏi của tôi và người khác đều nương theo tính chất thanh tịnh không nhiễm cấu của Hoa Sen mà thành tựu căn tính lanh lợi thông tuệ cao quý của Đế Vương.
HUYỀN THANH Kính Ghi